Hôm nay,  

Trâu Chậm Và Nước Đục

05/07/200600:00:00(Xem: 2862)

...Khối lượng đầu tư của VN sở dĩ còn thấp là vì tham ô và thất thoát. Tôi gọi đó là ‘ảo giác số một’, của cái định hướng xã hội chủ nghĩa, và truyền thông giới đầu tư nước ngoài thì khen VN giỏi chứ đa số người VN thì vẫn cúi đầu ngậm ngùi, khó chiu.

Việt Nam đang chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO trong khi ấy nhiều chỉ dấu lại như tiên báo viễn ảnh thiếu sáng sủa cho kinh tế Đông Á vào năm tới. Trước những triển vọng và rủi ro trong tương lai, Việt Nam nên chuẩn bị ra sao" Diễn đàn Kinh tế đài RFA nêu câu hỏi cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa qua phần trao đổi do Việt Long thực hiện sau đây.

- Hỏi: Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, tiếp tục loạt bài về nguy cơ suy trầm kinh tế trong năm tới, kỳ này, chúng tôi xin đề nghị là ta sẽ trao đổi về những gì Việt Nam cần chuẩn bị. Nhưng trước hết, xin có một câu hỏi đầu tiên mà nhiều thính giả đang thắc mắc là vòng đàm phán của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO bị bế tắc vào cuối tuần qua, biến cố ấy là gì"

- Thưa biến cố ấy là điều mà Việt Nam cần theo dõi học hỏi trước viễn ảnh sẽ gia nhập tổ chức WTO vào cuối năm nay. Thứ Bảy tuần qua, hội nghị của WTO để khai thông vòng đàm phán Doha thực tế đã tan vỡ và đây là một tin rất kém vui cho các hội viên WTO.

- Hỏi: Xin ông giải thích luôn về vòng đàm phán Doha này và nguyên nhân tan vỡ đó.

- Tháng 11 năm 2001, tại Doha của xứ Qatar ở vùng Vịnh Ba Tư, các hội viên WTO đã mở ra một vòng đàm phán mới nhằm hạ thấp hàng rào giao dịch ngoại thương, như quan thuế biểu hay hạn ngạch nhập khẩu, với mục đích chính yếu là có chế độ mậu dịch công bằng hơn cho các nước nghèo. Sau các kỳ họp tại Cancun của Mexico rồi Genève tại Thụy Sĩ, rồi Paris rồi Hong Kong, gần năm năm đã qua mà mục tiêu đề ra tại Doha vẫn chưa đạt được và vòng đàm phán Doha vì vậy mới được nhiều nước coi là bế tắc, thậm chí sụp đổ.

Mọi cách đại lược, nguyên nhân chính ở đây là hai khối, gồm một bên là các nước công nghiệp hoá và bên kia là các nước đang phát triển, không thống nhất được quan điểm về chính sách trợ cấp nông phẩm của các nước giàu, chủ yếu của Liên hiệp Âu châu trong cái gọi là Chính sách Canh nông chung và của cả Hoa Kỳ. Lý do vắn tắt thì các nước nghèo đòi tối đa mà các nước giàu chỉ nhượng bộ tối thiểu, nhất là các nước đó đều sắp có bầu cử nên bị sức ép rất mạnh của các xu hướng bảo hộ mậu dịch bên trong và không thể lùi được.

- Hỏi: Nếu vậy, hậu quả sẽ ra sao"

- Có người lạc quan, có khi vì lý do ngoại giao chính trị, thì cho rằng vòng đàm phán Doha bị trì hoãn. Người bi quan thì cho là WTO bị khủng hoảng. Tôi thuộc xu hướng bi quan ấy và dự đoán là WTO sẽ bị tê liệt vì là diễn đàn tranh cãi kiện tụng triền miên trong thời gian tới.

Cùng với nhiều định chế quốc tế và các tổ chức ngoài chính phủ mà ta hay gọi tắt là NGO, các nước đang phát triển như Ấn Độ, Brazil và Trung Quốc lẫn các quốc gia xuất khẩu nông phẩm mạnh, như Úc Đại Lợi hoặc cả New Zealand, không chấp nhận được chế độ bảo hộ nông nghiệp của các nước giàu, nhất là Liên hiệp Âu châu. Mà Liên hiệp Âu châu đang bị khủng hoảng về bản sắc và tương lai nên sẽ khó nhượng bộ. Tại Hoa Kỳ cũng vậy, xu hướng bảo hộ mậu dịch đang gây sức ép với chính quyền của Tổng thống Bush cho nên tôi e rằng họp thì cứ họp chứ khai thông thì chưa.

- Hỏi: Nếu những dự đoán ấy là đúng thì tương lai WTO sẽ ra sao và giao dịch ngoại thương giữa các nước sẽ phát triển theo hướng nào"

- Tôi mong là mình đoán sai, nhưng e rằng WTO sẽ bị ách tắc vì là nơi kiện cáo triền miên và vì vậy, các nước khôn ngoan nhất đều đã nghĩ tới khuôn khổ hợp tác khác, là những thỏa ước thương mại song phương, hay cấp vùng, giữa một số quốc gia có liên hệ về địa dư với nhau. Xin nói ngay rằng đây là một kịch bản bất lợi cho các nước đang phát triển, nhưng đang thành hình trong thực tế nếu ta nhớ tới hàng loạt hiệp định thương mại song phương mà Hoa Kỳ, Nhật Bản hay cả Trung Quốc đã ký kết với từng quốc gia, hoặc nếu ta nhớ tới các thỏa ước tự do mậu dịch cấp vùng đang được khai triển từ mấy năm qua.

- Hỏi: Vì sao ông lại cho rằng đấy là điều bất lợi cho các nước đang phát triển"

- Trong một cơ chế đa phương như WTO thì giàu nghèo yếu mạnh gì mỗi quốc gia cũng chỉ có một phiếu và nếu có khiếu nại kiện tụng thì cơ chế quốc tế này sẽ làm trọng tài xét xử. Ngược lại, trong các thỏa ước song phương hay cấp vùng, các nước giàu nhất vẫn giữ thế mạnh và thỏa mãn đòi hỏi cục bộ của từng quốc gia mà vẫn chiếm ưu thế trên tổng thể. Các nước nghèo mà không liên đới với nhau thì từng nước sẽ bị hay được thuyết phục đi vào những chọn lựa riêng lẻ, có lợi riêng cho mình trong trước mắt nhưng vẫn tùy thuộc quá nhiều vào thiện chí của đối tác đã công nghiệp hoá và có thế mạnh. Ngược lại, lãnh đạo một xứ hùng mạnh thì khó hy sinh quyền lợi của từng thành phần cử tri của họ trong một khuôn khổ quốc tế và thay vì phát triển ngoại thương qua WTO thì họ phát triển qua hướng khác, với từng nước hay từng nhóm quốc gia, trên từng địa hạt có chọn lựa.

- Hỏi: Trở lại chuyện Việt Nam, với viễn ảnh sẽ gia nhập WTO mà tổ chức này lại lâm khủng hoảng như ông nói thì tương lai sẽ ra sao"

- Có một sự thật cần nói ra dù làm nhiều người phật ý hoặc kém vui, đó là cảnh trâu chậm uống nước đục. Việt Nam họp chợ quá trễ nên ích lợi thì có đấy nhưng không nhiều như mình hy vọng và trước mắt sẽ gặp nhiều chuyện bẽ bàng nếu cứ lạc quan duy ý chí. Ngay trong khuôn khổ WTO, Việt Nam sẽ gặp vấn đề với các nước hội viên có cùng trình độ phát triển và cạnh tranh trên những thị trường tương tự, trước khi lo sợ là sẽ bị doanh nghiệp Mỹ hay Âu châu đổ bộ và tấn công ngay trên sân của mình, trong thị trường của mình.

Ngược lại, và đây là chuyện chính, Việt Nam cần chú ý nhiều hơn tới thỏa ước song phương với các đối tác quan trọng nhất, và đồng thời cũng cần ý thức được là mình không chiếm thế mạnh trong các hiệp định thương mại song phương đó. Mình cần người ta hơn là người ta cần mình. Một thí dụ nên theo dõi là các hiệp định thương mại song phương mà Hoa Kỳ đã ký kết với các nước Đông Á, gần đây nhất là với Nam Hàn. Mà với Hoa Kỳ thì còn tương đối công bằng dù họ đòi hỏi những điều cần thiết cho người dân Việt Nan là tự do hay nhân quyền, chứ với Trung Quốc thì khác. Việt Nam đã có thói quen ký kết hiệp định bất bình đẳng với Bắc Kinh và lãnh đạo ngày nay còn tích cực và kín đáo hơn trong những ký kết ấy vì Trung Quốc chẳng khi nào nêu vấn đề về dân chủ hay nhân quyền. Họ cần điều khác hơn.

- Hỏi: Chúng ta bước qua phần chính của chương trình, là trong viễn ảnh 2007, khi Việt Nam vừa gia nhập WTO mà kinh tế Đông Á có thể bị suy trầm như ông đã phân tách trong hai kỳ liên tiếp, Việt Nam cần chuẩn bị những gì"

Tôi thiển nghĩ rằng việc đầu tiên chính là một nỗ lực "giải ảo". Tự mình phải giải phóng mình ra khỏi những ảo giác mà đa số do lãnh đạo thổi lên cho quần chúng rồi lại cho rằng đấy là thành tích của chính mình. Ảo giác đầu tiên là tăng trưởng. Đó là tăng trưởng mà không phát triển. Mặt trái của nó là đầu tư quá nhiều mà tăng trưởng quá ít với kết quả không phân phối đồng đều, chìm bên dưới là nạn tham nhũng và thất thoát tài sản quốc gia.

- Hỏi: Việt Nam hiện có tốc độ tăng trưởng khoảng 7-8% và có lẽ chỉ thua Trung Quốc thôi, vì sao ông lại gọi kết quả ấy là ảo giác"

- Xin nói tới ý niệm của kinh tế học nhập môn mà giới lãnh đạo kinh tế tại Việt Nam đều nghe ngoại quốc nói tới là "hệ số gia tăng của đầu tư", nói theo thuật ngữ kinh tế là ICOR. Đó là hệ số đầu tư ở đầu vào so với kết quả ở đầu ra mà ta gọi là mức tăng trưởng. Nó tùy thuộc trình độ tổ chức và kỹ thuật vào từng giai đoạn. Thí dụ như trình độ của Việt Nam ngày nay thì mình đầu tư ba phần sẽ thu hoạch được một. Ở các nước có trình độ tiên tiến hơn, hệ số ấy cao hơn nhiều, phải đầu tư năm phần mới ăn được một. Điều ấy giải thích vì sao các nước bắt đầu phát triển thường có tỷ lệ tăng trưởng rất cao, tới 6-7% một năm, trong khi các nước tiên tiến mà đạt được kết quả chừng 3-4% là hài lòng, 5% là hãn hữu.

- Hỏi: Đó là trường hợp chung cho thế giới, còn trường hợp Việt Nam thì sao"

Nôm na cho trường hợp Việt Nam thì mình có 100 đồng, cố chắt bóp dành 45 đồng cho việc làm ăn hay đầu tư. Ở trình độ sơ khai của mình thì hệ số gia tăng phụ trội của đầu tư có thể ở khoảng số ba, đầu tư ba phần thì tăng được một, nếu đầu tư 45% của Tổng sản lượng GDP thì đáng lẽ tốc độ tăng trưởng phải là 15% GDP; nếu đầu tư 30% sản lượng thì đạt tốc độ 10%, chả có phép lạ gì của đổi mới ở đây cả. Các nước Đông Á đi trước đều đã đạt kỷ lục 10% đó từ hơn ba chục năm trước, mà xã hội của họ công bằng hơn vì kết quả phân phối tốt đẹp hơn. Ngược lại, một thí dụ gần đây của Trung Quốc là thành phố Thiên Tân có đà tăng trưởng đến 20% nhưng chênh lệch giàu nghèo bị đào sâu tại Hoa lục đang là vấn nạn cho lãnh đạo xứ này vì nhiều tỉnh vẫn chưa ra khỏi thế kỷ 19 và nông dân bắt đầu biểu tình, nổi loạn.

So với khối lượng đầu tư của Việt Nam nhờ đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài và gần năm tỷ Mỹ kim của dân hải ngoại gửi về hàng năm thì Việt Nam phải có tốc độ tăng trưởng cao hơn 7-8% rất nhiều. Sở dĩ còn thấp như vậy là vì tham ô và thất thoát. Tôi gọi đó là "ảo giác số một", của cái định hướng xã hội chủ nghĩa, và truyền thông giới đầu tư nước ngoài thì khen Việt Nam giỏi chứ đa số người Việt Nam thì vẫn cúi đầu ngậm ngùi, khó chiu.

- Hỏi: Trong năm tới, nếu tốc độ tăng trưởng có giảm sút thì Việt Nam phải xử trí ra sao"

- Tôi cho là đà tăng trưởng có chậm lại thì cũng không quan trọng bằng một nỗ lực giải ảo thứ hai là quan tâm đến phẩm hơn lượng. Cụ thể là nhìn vào ngân sách chi tiêu gia đình của đại đa số dân chúng vẫn còn rất nghèo, nhất là ở thôn quê và các vùng xa, vùng sâu. Với viễn ảnh kinh tế suy trầm, lạm phát cao mà cạnh tranh lại kịch liệt hơn của năm tới, nông dân và người nghèo sẽ bị thiệt nhất. Chuyện chính yếu vì vậy không phải là cứu vãn doanh nghiệp nhà nước sẽ bị điêu đứng ở đô thị mà là phát triển nông thôn theo quy cách khác và trước mắt là giúp cho nhà nông không bị những giao động lớn về giá cả trên thị trường quốc tế.

Khi nông phẩm được giá, họ không lời nhiều vì cơ chế thu mua và xuất khẩu của mình chưa đủ tinh vi. Khi nông phẩm sụt giá, họ phá sản mà nhà nước chỉ lo cứu vớt doanh nghiệp thu mua và ngân hàng của nhà nước thì người dân bị thiệt và ta không khai thác được lợi thế của tự do mậu dịch. Chúng ta sẽ còn cơ hội trở lại những vấn đề này trong các kỳ tới.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên, Donald Trump đã khiến nhiều người sửng sốt vì tốc độ thay đổi chóng mặt trong hàng ngũ các viên chức nội các và cố vấn thân cận. Nhưng khi bước vào nhiệm kỳ hai, hiện tượng ấy gần như biến mất; chỉ còn một vài người rút lui. Nhưng theo các chuyên gia, điều đó không đồng nghĩa với sự hòa hợp. Thay vào đó, sự “ổn định” ấy đến từ việc Trump chỉ chọn những người không dám làm trái ý mình. Những người sẵn sàng nghe và vâng lời ông, bất kể đúng sai.
Ở Hoa Kỳ, khi nghe đến cụm từ “giáo dục tổng quát,” người ta thường hình dung về những khóa học nhập môn trong các lĩnh vực nghệ thuật, nhân văn, khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và toán học. Tùy vào mỗi trường, chương trình này có thể mang những cái tên khác nhau như “chương trình căn bản” (core curriculum) hay “các môn học bắt buộc” (distribution requirements). Ngoài ra, chương trình này đôi khi còn có một tên gọi khác là “giáo dục khai phóng” (liberal education). Hội các trường Cao đẳng và Đại học Hoa Kỳ (American Association of Colleges and Universities, AACU) mô tả đây là chương trình giúp bồi dưỡng “tinh thần trách nhiệm xã hội, cùng với các kỹ năng trí tuệ và thực tiễn vững vàng có thể vận dụng linh hoạt.”
Trong nhiều năm kể từ khi Jeffrey Epstein được phát hiện chết trong phòng giam tại Metropolitan Correctional Center (MCC), New York, giới chức liên bang luôn khẳng định rằng cái chết này là một vụ tự sát. Tuy nhiên, một cuộc điều tra độc lập do CBS News thực hiện đã phơi bày hàng loạt mâu thuẫn giữa các tuyên bố của chính phủ và những gì thực sự hiện ra trong đoạn phim giám sát vừa được công bố.
Cuối mùa Hè năm 1955, Till-Mobley tiễn con trai của bà, Emmett Till 14 tuổi lên một chuyến tàu từ Chicago đến thăm chú và các anh em họ của Emmett ở quê hương Mississippi của bà. Giống như những phụ nữ và đàn ông da đen nói với con cái họ về việc chú ý các điểm dừng giao thông và các cuộc chạm trán khác với cảnh sát, Till-Mobley đã căn dặn Emmett rất kỹ. Bà cho cậu biết cậu đang đi đến một nơi mà an toàn phụ thuộc vào khả năng kiềm chế sự bốc đồng, tính cách không khuất phục của cậu với người da trắng. Linh cảm của người mẹ mang đến trong lòng bà nỗi bất an không giải thích được. Bà đưa cho Emmett chiếc nhẫn bạc của ông Louis Till, cha của cậu. Chiếc nhẫn khắc chữ L.T.
“Đi về Miền Nam, miền hương thơm bông lúa tràn ngập đầy đồng; Đi về Miền Nam, miền xinh tươi đất rộng cùng chung nguồn sống” Và cứ như thế, với tiếng hát trong tâm tưởng, từng đoàn người gồng gánh ra đi. Họ đi về hướng Nam giống như cha ông của mình từ bao nhiêu thế kỷ trước. Bây giờ lại còn một động lực mới và mãnh liệt khác, đó là đi tìm tự do: ‘chúng tôi muốn sống!’, như tên gọi một cuốn phim nổi tiếng của đồng bào di cư sau này. Cuối tháng 6, dù hiệp định đình chiến chưa ký kết nhưng quân đội Pháp và Quốc gia đã rút lui khỏi nhiều địa điểm ở đồng bằng Bắc Việt nên nhiều người bắt đầu di tản về các đô thị, đặc biệt là Hải phòng.
Cõi này ngày càng bất an! Tình trạng hâm nóng toàn cầu đã dẫn tới nhiều thảm họa như bão lụt, hạn hán, mực nước biển dâng cao, dịch bệnh, mất mùa, đói khát lầm than. Chiến tranh thù hận ngày càng hung bạo đã làm cho hàng triệu người thương vong, nhà cửa ruộng vườn bị phá hoại. Các chế độ độc tài, quân phiệt, và nạn kỳ thị sắc tộc đã thẳng tay đàn áp dân lành. Tất cả những điều trên đã dẫn đến thảm trạng bỏ nước đi của hàng triệu người trên thế giới! Theo Population Division of the United Nations Department of Economic and Social Affairs (UNDESA), năm 2024 có tới 304 triệu di dân trên toàn cầu, là một con số tăng gần gấp đôi kể từ năm 1990, khi lúc đó có 154 triệu di dân trên thế giới. Đó là 3.7% tổng dân số địa cầu. Theo Cơ Quan Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, tính tới cuối năm 2024, có 43.7 triệu người tị nạn, gồm 6 triệu người tị nạn từ Palestine và 8 triệu người xin được nhận vào quy chế tị nạn trên toàn cầu.
Trong số người Việt, thế hệ thứ nhất có 29% học xong cử nhân hay cao hơn. Thế hệ sinh ra lớn lên tại Hoa Kỳ con số này là 59%. Như thế có thể lý giải là phụ huynh không có cơ hội học cao nhưng khuyến khích con theo đuổi đường học vấn cho tương lai.
Khi các chuyên gia quan ngại về mối quan hệ của giới trẻ với thông tin trực tuyến, họ thường cho rằng giới trẻ tuổi không hiểu biết về phương tiện truyền thông như những người lớn tuổi hơn. Nhưng công trình nghiên cứu dân tộc học do Jigsaw – cơ sở công nghệ của Google - thực hiện lại tiết lộ một thực tế phức tạp và tinh tế hơn: Thế hệ Z, thường được hiểu là những người sinh sau năm 1997 và trước năm 2012, đã phát triển các chiến lược khác biệt rõ rệt để đánh giá thông tin trực tuyến, những chiến lược sẽ khiến bất kỳ ai trên 30 tuổi trở nên bối rối. Họ không tiếp thu thông tin như những người lớn tuổi hơn bằng cách đầu tiên đọc tiêu đề và sau đó là nội dung.
Người Việt Nam không ai xa lạ với từ ‘Gulag’ - trại tù lao động khổ sai khét tiếng của Liên Bang Xô Viết. Ước tính trong khoảng hai thập niên từ 1930-1953, nơi đây giam giữ khoảng 4 triệu tù nhân; 1.5 triệu đã chết trong tù hay sau khi được thả một thời gian ngắn. Gulag từng được xem là địa ngục trần gian, là biểu tượng cho sự tàn bạo của nhà tù cộng sản. Trong những ngày cuối tháng 6, khi mà người dân Mỹ chuẩn bị pháo hoa đón mừng Lễ Độc Lập, cái tên Gulag được sử dụng khi nói đến một nhà tù mới được hình thành ở Florida. Nhà tù này có tên gọi là Alligator Alcatraz. Trong một bài viết được đăng trên trang mạng Amrican Community Media ngày 30/06/2025, nhà báo Laszlo Bartus đã cảnh báo rằng nó sẽ là nhà tù vô nhân đạo nhất thế giới.
Trong hơn bảy mươi năm qua, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Iran đã trải qua nhiều bước ngoặt – từ một liên minh chiến lược thời Chiến tranh Lạnh, đến một trong những nước đối đầu gay gắt và kéo dài nhất của thời đại hậu thuộc địa. Bản tóm lược dưới đây ghi lại những cột mốc chính từ năm 1953 đến 2025, nhằm cung cấp một cái nhìn toàn diện về diễn biến phức tạp của quan hệ Hoa Kỳ–Iran trong bối cảnh biến động địa chính trị toàn cầu.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.