Hôm nay,  

Tôi Lên... Báo

12/08/200600:00:00(Xem: 3157)

Mô Phật, xưa nay tôi cặm cụi viết mãi, cũng được đăng đều, dù biết mình viết bài không hay lắm, nói cho đúng thì tôi khởi nghiệp, cái nghiệp...chướng nầy từ trang Phusa.net của anh Nguyễn Lê Nguyên, thói thường ở ngoại quốc thì không biết thế nào chứ xứ ta và các nhà văn ta xưa nay chẳng thấy ai là xuôi bườm mát mái trên con đường gọi là ...Văn nghiệp.

Theo lịch sử Việt nam thì người nỗi tiếng nhất có lẽ là cụ Nguyễn Du, tác giả Kim vân Kiều truyện, Âu Á, Đông Tây đều biết cụ, thế mà trong đời còn than thở một câu:

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như"

Thuở sinh thời, cũng nhờ văn vẻ ra làm quan, nhưng khốn nỗi,Việt nam thường chiến tranh và phe phái, cuối cùng cụ cũng cáo quan về quê, trên đường về chắc lòng buồn rười rượi, có lẽ không khác mấy cái ngày đầu tiên tôi làm việc với cơ quan an ninh, nhưng cụ có cái ung dung là giũ sạch, còn tôi thì lơ lững chưa biết, nên cụ còn cảm nhận hai câu:

 Trên đường quê gặp người bán củi

Thương nhau, không chỗ giống nhau.

Giống làm sao được kia chứ, kẻ chán sự thối nát mà bỏ quan trường, kẻ thì đầu tắt mặt tối lặn lội kiếm cái ăn, chẳng biết ai khổ hơn ai" Và cũng chẳng biết nếu có thể làm thơ, người tiều phu ấy xuất khẩu vài câu thương hại ngược lại cho cụ thì chí nguy...

Tới những bậc cao nhân thời chữ Nôm chữ Hớn, những Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Cao Bá Quát, cho chí thời chữ Quốc ngữ những Khái Hưng, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng cũng không thấy ai phất lên hay kiếm miếng ngon ngon nhờ vào mớ chữ, và...cái đáng tội nhất là hình như sau khi họ chết rồi thì mới bất tử, người đời mới chiêm nghiệm, bàn ra tán vào chán chê theo từng giai đoạn lịch sử, cho rồi cấm, rồi lại cho, có tội tình chi mấy ông nhà văn trói gà không chặt ấy nhỉ" Nếu ai cũng hiểu giúp cho rằng, gặp chuyện gì đó, thay vì vung gươm tuốt kiếm như con nhà võ biền, thì giới văn vẻ cũng xả xu-pắp bằng chửi đổng vài bài cho sướng miệng, văn không làm ai sống, chẳng làm ai chết, chỉ có nhột, nhột như cù –lét tí thôi, suy diễn tới chuyện quốc gia đại sự thì ôi thôi...hết biết.

Ngày cách mạng, từ chiến khu có những Hữu Loan, Quang Dũng, Trần Dần...và biết bao nhiêu kẻ khác, sống một đời cơ cực với những đứa con tinh thần do mình đẻ ra, chuyện văn chương nó phải trúc trắc éo le, cả trong văn lẫn trong người mới thành nhà văn, nhà thơ, xét lúc nầy chỉ mỗi ông Tố Hữu là vinh thân phì da nhờ nghề  Thợ, làm tới quan chức Chánh phủ chứ chẳng chơi, nhưng rồi cũng không xong, bỡi lẻ ông làm quan to, nên lại nhúng vào chuyện “Giá, lương, tiền” là chuyện không phải của văn thơ, thành kết cục cũng thành “tối sủa”.

Giá viết văn cũng như học làm mắm thì khỏe biết bao, cứ cho cá cho muối,cho vào hủ rồi chờ thời gian là xực...khổ chuyện văn chương phải hứng thú mới làm ra được, chưa nói tới cái trời cho là khiếu, có ông Tiến sĩ giỏi như trời, nhưng đặt bút lại không nặn ra vài câu,dù sở học tận mây xanh mây đỏ, lại có anh khóa làng không thi đỗ Hương, Hội, Đình thì mở miệng thơ tuôn ra...cứ là xối xã, nhưng...khi có sự Nhột Nhột rồi thì coi chừng, vạ như chơi chứ chẳng đùa,

Ông Hữu Loan gần đất xa trời mới lai tĩnh, còn thì cứ chở đá nung vôi nấu gạch, chỉ vì mỗi bài thơ bất hủ nói thật tâm sự đời riêng ‘Màu tím hoa sim” (cũng bài ấy mà ông Phạm Duy xào nấu ăn ngon thơm phứt, chẳng rõ...những ngày xuôi cố quốc ông ta có ghé lại cảm ơn không nhỉ...") cũng may tới thời kỳ đổi mới đám ”con phe” trước đó được nhà nước tặng danh hiệu Doanh nhân, có hẳn một ngày kỷ niệm nên có kẻ chơi trội, mua bản quyền bài thơ của cụ...những một trăm triệu, cũng đỡ cho cái thân già, tiếc rằng: Lợi thì có lợi mà răng không còn.

Rồi như ông Quang Dũng, ra chiến trường tới Trung đoàn trưởng Tây tiến, nói lên cái khổ của người chiến binh nơi xứ Pathét Lào sốt rét trọc đầu là...bị trọc đầu lần nữa, giá biết bắt chước ai đó nói dối để sống có nhẻ Quang Dũng làm cán bộ cấp Trung ương,như câu hát “Đi chiến trường gùi trên vai nặng trĩu...đàn  Ta lư em hát với ca vang cùng núi rừng...” nặng trĩu là hát với ca chứ đừng than thở nhà thơ Quang Dũng ạ. Vong hồn anh có biết thế không"

Kể ra tôi cũng có sự thiên lệch đôi chút cho những nhà thơ lính, bỡi tôi cũng có thời ở “ Nhà binh”nên trong số nhiều vị như Văn Cao, hay nhiều người khác nữa đại xá, kẻ hèn nầy xin Nam mô a di đà tứ phía...

Cho tới hôm nay, tôi chẳng phải nhà văn, nhà thơ, nhà báo gì sấc, chẳng qua buồn chán cái thói đời ô trọc, bằm xuống bàn phím vi tính ra con chữ rồi gửi đăng, anh em thấy tội, dìu dắt và bỏ qua lỗi chính tả đăng cho vài bài gọi là...có công mài sắt có ngày nên...dùi vậy, hứng chí bằm tới, húc như trâu húc mã, mấy chục bài, anh em đọc cứ tưởng ông già nầy đang độ ...hồi xuân sung sức, viết khỏe.

Quả là chưa vui đã sầu chia phôi, ông nhà nước kiểm duyệt tới báo nước ngoài, thế là thay vì thời @ với bàn phím, tôi lùi lại bút lá tre... tất cả tựa bài đều chung công thức như làm mắm...Tôi tên là. Ngày... tháng... năm sinh..., chánh trú quán v.v...và v.v..

Con trâu hồi xuân thành con trâu què, thời gian và đầu óc lẩn quẩn chuyện chính chị, chính em, chuyện lời khai, lời thuật...anh em báo giới thấy thương cho tôi, đưa tôi lên bàn mổ, phỏng vấn, lên đài, kể ra mà nói tôi cũng mừng cho cái nghiệp của mình, tới lúc hai ba bên định bệnh cho lên bàn mỗ rồi đây, phen nầy ung thư ung thối gì cũng có người chữa, trời không cho sống cũng ra ma. Trăm sự phú cho thiên địa vậy. Anh em họ không chờ tôi viết nữa, họ chăm nhau viết cho tôi,chạy nhiều tít lớn, kể như thằng tôi vô danh tiểu tốt thế nầy, không quan thầy, không rỏn rẽn xu hào gì mà anh em họ thương, tôi biết là lòng thật, mới nghiệm thân tiều phu đốn củi của mình, nhà văn, nhà báo nghèo kiết xác với nhau nhưng có tấm lòng làm ấm nồng, bởi cũng chính họ, đem những ông to, bà lớn trên khắp thế gian ra bêu thằng nọ thằng kia, nhà văn nhà báo đại diện cho dư luận, mà...Dư luận...không có nhiệm kỳ.

Nhưng...lại nhưng, đã mang cái nghiệp vào thân, hơi đâu mà trách trời gần trời xa, không viết thì cứ lóng nga lóng ngóng thế nào ấy, nên bác sĩ có kê toa là không nên uống toa cũ, toa mới là phải cữ kiêng các món có tính chị, em...nên trong thời gian ở cữ cũng kiêng bớt chuyện chị em cái đã, tuổi hồi xuân không biết đã qua chưa" Tới cụ Nguyễn Du mà còn nói văn chương là thứ “Mua vui cũng được một vài trống canh” bác sĩ lập bệnh án, tôi kê toa không đúng chỗ chứ có nói chi chuyện Dân chủ chủ dân mô trời" Thế mà cũng họa. Họa vô đơn chấy. Hử.

Du Lam

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đọc lịch sử, ta thấy bất cứ dòng họ vua chúa nước nào cũng thường trải qua một thời hưng thịnh ban đầu rồi dần dần suy tàn, nhường chỗ cho một triều đại mới. Những kẻ cướp ngôi hầu hết đều thuộc hạng bề tôi đã gây được thế lực đủ mạnh để lấn lướt nhà vua...
Dọc đường tôi đi bộ bên bờ kênh Delaware và Raritan, khoảng cuối tháng Tư có loại hoa màu tím nhạt nở từng chùm treo lúc lỉu trên những cành cây; thấp thì sà xuống mặt nước, cao thì cách mặt đất chừng chục mét. Hoa thuộc loại dây leo, nở lâu sắp tàn thì màu tím nhạt dần rồi biến thành màu trắng; khi chưa nở, nụ hoa trông giống như những hạt đậu màu tím. Có lẽ vì thế người ta gọi là cây đậu tía. Hoa còn có tên khác, đẹp hơn. Hoa Tử Đằng. Có người giải thích, Tử là màu tím; Đằng là chữ dùng chung cho loại dây leo.
Đó là một buổi sáng thứ Hai băng giá ở Matxcơva. Bên trong Viện Văn hóa Nhà nước của thành phố, Yuri Kot quyết tâm khơi ngọn lửa trong lớp. “Là người Nga nghĩa là gì?” ông gầm lên, nghiêng người về phía trước và nhìn chằm chằm vào các sinh viên. Kot – một người đàn ông 47 tuổi tóc vàng, trông giống một con gấu với những tuyên truyền yêu nước đã khiến ông trở thành khách mời nổi tiếng trên các chương trình truyền hình Nga – là trưởng khoa báo chí của học viện này.
Tìm được một nụ cười trên môi một người VN lưu vong vào tháng 4 hàng năm không dễ dàng. Cả 30 ngày của tháng tư, "những ngày mây xám giăng trên đỉnh trời", hình ảnh những người đã bỏ mình cho 20 năm tự do của miền Nam, những người mãi mãi nằm lại dưới đáy đại dương , không đặt chân được bến bờ tự do hiện về trong ký ức của chúng tôi rõ mồn một như mới hôm qua.
Nguyên tác của bản dịch là “The Vietnam War and its Conclusions”, một trích đoạn trong tác phẩm Leadership -- Six Studies in Wold Strategy của Henry Kissinger do Nhà xuất bản Penguiun Press, New York ấn hành năm 2022, (trang 149-63). Trong bài viết, Kissinger nêu lên chiến lược nguyên thuỷ khi đàm phán của Richard Nixon đề ra là binh sĩ Mỹ và Bắc Việt phải cùng lúc rút ra khỏi miền Nam. Nhưng khi dự thảo cho Hoà ước Paris, có sự thay đổi điều kiện là Lê Đức Thọ chỉ chấp thuận cho việc binh sĩ Mỹ đơn phương ra đi trong khi binh sĩ Bắc Việt được tiếp tục đồn trú tại miền Nam. Kissinger không giải thích tại sao phải chấp nhận điều kiện này. Trong cuốn sách Kissinger’s Betrayal: How America Lost the Vietnam War do Nhà xuất bản Real Clear Publishing ấn hành vào tháng 4 năm 2023, Stephen B. Young có phát hiện một sự thật khác: Kissinger đã qua mặt cả Nixon khi tự ý đề ra điều kiện cho binh sĩ Bắc Việt ở lại.
Một quy hoạch vùng cho hệ thống cao tốc đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa của cả nước đã được phê duyệt, thực ra công trình giao thông này đã đến với dân chậm mất vài thập niên vì quy hoạch này đã sớm phải là một trong những ưu tiên cao nhất quốc gia...
Trong cuộc chiến 1954-1975 giữa Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở Bắc Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa ở Nam Việt Nam, khi tình hình càng ngày càng căng thẳng và bất lợi cho Nam Việt Nam, thì Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, một nước cộng sản, mở cuộc vận động ngoại giao nhằm tránh sự sụp đổ của Nam Việt Nam. Đây là một diễn biến khá bất thường, nên để tìm hiểu việc nầy, xin quay trở lại chủ trương ngoại giao của CHND Trung Hoa từ năm 1954 về vấn đề Đông Dương.
✱ ĐS Martin: Tôi nói, tôi có cảm giác rằng nếu ông không có quyết định sớm, các tướng lãnh của ông sẽ yêu cầu ông ra đi - tôi đoán là ông ta sẽ sớm ra đi bằng cách này hay cách khác. Nếu các tướng lãnh của ông ta cho thêm vài ngày nữa - và rằng nếu ông không hành động sớm, các sự kiện sẽ ập đến với ông. ✱TT Thiệu: Cái bản văn hiệp định đó là bản văn hiệp định Hoa Kỳ bán miền Nam Việt Nam cho cộng sản – tôi nói với ông Ngoại trưởng Kissinger lúc đó nếu như ông chấp nhận bản hiệp vì lý do riêng tư tôi không biết, nể nang nhau, đổi chác nhau, đem quyền lợi sinh mạng của dân tộc miền Nam này ra bán – chớ tôi là người Việt Nam, tôi không chấp nhận - Nếu tôi không có thiện chí đàm phán thì làm sao hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973 được ký kết? Mặc dù thỏa thuận đó là một thỏa thuận què quặt, tôi phải chấp nhận nó. ✱ TT Thiệu: Người Mỹ... thất hứa, thiếu công bằng, thiếu chính nghĩa, vô nhân đạo đối với một đồng minh đang chịu đau khổ, trốn tránh trách nhiệm của một đại cường...
Rõ ràng là các gen của quý vị và vợ/chồng của quý vị sẽ xác định giới tính của con cái quý vị. Nhưng quý vị có biết rằng gen xác định giới tính mà quý vị truyền lại cho con cái có thể đã được truyền lại từ ông của chúng không?
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.