Hôm nay,  

Tôi Lên... Báo

12/08/200600:00:00(Xem: 3151)

Mô Phật, xưa nay tôi cặm cụi viết mãi, cũng được đăng đều, dù biết mình viết bài không hay lắm, nói cho đúng thì tôi khởi nghiệp, cái nghiệp...chướng nầy từ trang Phusa.net của anh Nguyễn Lê Nguyên, thói thường ở ngoại quốc thì không biết thế nào chứ xứ ta và các nhà văn ta xưa nay chẳng thấy ai là xuôi bườm mát mái trên con đường gọi là ...Văn nghiệp.

Theo lịch sử Việt nam thì người nỗi tiếng nhất có lẽ là cụ Nguyễn Du, tác giả Kim vân Kiều truyện, Âu Á, Đông Tây đều biết cụ, thế mà trong đời còn than thở một câu:

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như"

Thuở sinh thời, cũng nhờ văn vẻ ra làm quan, nhưng khốn nỗi,Việt nam thường chiến tranh và phe phái, cuối cùng cụ cũng cáo quan về quê, trên đường về chắc lòng buồn rười rượi, có lẽ không khác mấy cái ngày đầu tiên tôi làm việc với cơ quan an ninh, nhưng cụ có cái ung dung là giũ sạch, còn tôi thì lơ lững chưa biết, nên cụ còn cảm nhận hai câu:

 Trên đường quê gặp người bán củi

Thương nhau, không chỗ giống nhau.

Giống làm sao được kia chứ, kẻ chán sự thối nát mà bỏ quan trường, kẻ thì đầu tắt mặt tối lặn lội kiếm cái ăn, chẳng biết ai khổ hơn ai" Và cũng chẳng biết nếu có thể làm thơ, người tiều phu ấy xuất khẩu vài câu thương hại ngược lại cho cụ thì chí nguy...

Tới những bậc cao nhân thời chữ Nôm chữ Hớn, những Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Cao Bá Quát, cho chí thời chữ Quốc ngữ những Khái Hưng, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng cũng không thấy ai phất lên hay kiếm miếng ngon ngon nhờ vào mớ chữ, và...cái đáng tội nhất là hình như sau khi họ chết rồi thì mới bất tử, người đời mới chiêm nghiệm, bàn ra tán vào chán chê theo từng giai đoạn lịch sử, cho rồi cấm, rồi lại cho, có tội tình chi mấy ông nhà văn trói gà không chặt ấy nhỉ" Nếu ai cũng hiểu giúp cho rằng, gặp chuyện gì đó, thay vì vung gươm tuốt kiếm như con nhà võ biền, thì giới văn vẻ cũng xả xu-pắp bằng chửi đổng vài bài cho sướng miệng, văn không làm ai sống, chẳng làm ai chết, chỉ có nhột, nhột như cù –lét tí thôi, suy diễn tới chuyện quốc gia đại sự thì ôi thôi...hết biết.

Ngày cách mạng, từ chiến khu có những Hữu Loan, Quang Dũng, Trần Dần...và biết bao nhiêu kẻ khác, sống một đời cơ cực với những đứa con tinh thần do mình đẻ ra, chuyện văn chương nó phải trúc trắc éo le, cả trong văn lẫn trong người mới thành nhà văn, nhà thơ, xét lúc nầy chỉ mỗi ông Tố Hữu là vinh thân phì da nhờ nghề  Thợ, làm tới quan chức Chánh phủ chứ chẳng chơi, nhưng rồi cũng không xong, bỡi lẻ ông làm quan to, nên lại nhúng vào chuyện “Giá, lương, tiền” là chuyện không phải của văn thơ, thành kết cục cũng thành “tối sủa”.

Giá viết văn cũng như học làm mắm thì khỏe biết bao, cứ cho cá cho muối,cho vào hủ rồi chờ thời gian là xực...khổ chuyện văn chương phải hứng thú mới làm ra được, chưa nói tới cái trời cho là khiếu, có ông Tiến sĩ giỏi như trời, nhưng đặt bút lại không nặn ra vài câu,dù sở học tận mây xanh mây đỏ, lại có anh khóa làng không thi đỗ Hương, Hội, Đình thì mở miệng thơ tuôn ra...cứ là xối xã, nhưng...khi có sự Nhột Nhột rồi thì coi chừng, vạ như chơi chứ chẳng đùa,

Ông Hữu Loan gần đất xa trời mới lai tĩnh, còn thì cứ chở đá nung vôi nấu gạch, chỉ vì mỗi bài thơ bất hủ nói thật tâm sự đời riêng ‘Màu tím hoa sim” (cũng bài ấy mà ông Phạm Duy xào nấu ăn ngon thơm phứt, chẳng rõ...những ngày xuôi cố quốc ông ta có ghé lại cảm ơn không nhỉ...") cũng may tới thời kỳ đổi mới đám ”con phe” trước đó được nhà nước tặng danh hiệu Doanh nhân, có hẳn một ngày kỷ niệm nên có kẻ chơi trội, mua bản quyền bài thơ của cụ...những một trăm triệu, cũng đỡ cho cái thân già, tiếc rằng: Lợi thì có lợi mà răng không còn.

Rồi như ông Quang Dũng, ra chiến trường tới Trung đoàn trưởng Tây tiến, nói lên cái khổ của người chiến binh nơi xứ Pathét Lào sốt rét trọc đầu là...bị trọc đầu lần nữa, giá biết bắt chước ai đó nói dối để sống có nhẻ Quang Dũng làm cán bộ cấp Trung ương,như câu hát “Đi chiến trường gùi trên vai nặng trĩu...đàn  Ta lư em hát với ca vang cùng núi rừng...” nặng trĩu là hát với ca chứ đừng than thở nhà thơ Quang Dũng ạ. Vong hồn anh có biết thế không"

Kể ra tôi cũng có sự thiên lệch đôi chút cho những nhà thơ lính, bỡi tôi cũng có thời ở “ Nhà binh”nên trong số nhiều vị như Văn Cao, hay nhiều người khác nữa đại xá, kẻ hèn nầy xin Nam mô a di đà tứ phía...

Cho tới hôm nay, tôi chẳng phải nhà văn, nhà thơ, nhà báo gì sấc, chẳng qua buồn chán cái thói đời ô trọc, bằm xuống bàn phím vi tính ra con chữ rồi gửi đăng, anh em thấy tội, dìu dắt và bỏ qua lỗi chính tả đăng cho vài bài gọi là...có công mài sắt có ngày nên...dùi vậy, hứng chí bằm tới, húc như trâu húc mã, mấy chục bài, anh em đọc cứ tưởng ông già nầy đang độ ...hồi xuân sung sức, viết khỏe.

Quả là chưa vui đã sầu chia phôi, ông nhà nước kiểm duyệt tới báo nước ngoài, thế là thay vì thời @ với bàn phím, tôi lùi lại bút lá tre... tất cả tựa bài đều chung công thức như làm mắm...Tôi tên là. Ngày... tháng... năm sinh..., chánh trú quán v.v...và v.v..

Con trâu hồi xuân thành con trâu què, thời gian và đầu óc lẩn quẩn chuyện chính chị, chính em, chuyện lời khai, lời thuật...anh em báo giới thấy thương cho tôi, đưa tôi lên bàn mổ, phỏng vấn, lên đài, kể ra mà nói tôi cũng mừng cho cái nghiệp của mình, tới lúc hai ba bên định bệnh cho lên bàn mỗ rồi đây, phen nầy ung thư ung thối gì cũng có người chữa, trời không cho sống cũng ra ma. Trăm sự phú cho thiên địa vậy. Anh em họ không chờ tôi viết nữa, họ chăm nhau viết cho tôi,chạy nhiều tít lớn, kể như thằng tôi vô danh tiểu tốt thế nầy, không quan thầy, không rỏn rẽn xu hào gì mà anh em họ thương, tôi biết là lòng thật, mới nghiệm thân tiều phu đốn củi của mình, nhà văn, nhà báo nghèo kiết xác với nhau nhưng có tấm lòng làm ấm nồng, bởi cũng chính họ, đem những ông to, bà lớn trên khắp thế gian ra bêu thằng nọ thằng kia, nhà văn nhà báo đại diện cho dư luận, mà...Dư luận...không có nhiệm kỳ.

Nhưng...lại nhưng, đã mang cái nghiệp vào thân, hơi đâu mà trách trời gần trời xa, không viết thì cứ lóng nga lóng ngóng thế nào ấy, nên bác sĩ có kê toa là không nên uống toa cũ, toa mới là phải cữ kiêng các món có tính chị, em...nên trong thời gian ở cữ cũng kiêng bớt chuyện chị em cái đã, tuổi hồi xuân không biết đã qua chưa" Tới cụ Nguyễn Du mà còn nói văn chương là thứ “Mua vui cũng được một vài trống canh” bác sĩ lập bệnh án, tôi kê toa không đúng chỗ chứ có nói chi chuyện Dân chủ chủ dân mô trời" Thế mà cũng họa. Họa vô đơn chấy. Hử.

Du Lam

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sau một vài năm ở Mỹ và đã quen hơn với vùng đất mới của họ, những người nhập cư Việt Nam đã chuyển đến các khu vực đô thị lớn để tạo ra các “biệt khu dân tộc” (ethnic enclaves) với những người Mỹ gốc Á khác...
Từ đợt đầu di tản sau biến cố 30/4/1975, chừng 125,000 người. Vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, khi bộ đội miền Bắc tiến vào Sài Gòn, Hoa Kỳ đã ra lệnh sơ tán ngay lập tức nhân viên Hoa Kỳ và hàng nghìn quan chức quân sự và ngoại giao của miền Nam Việt Nam. Các kênh truyền hình tin tức Mỹ đã phát đi những hình ảnh đau lòng về cuộc không vận hỗn loạn, trong đó có đám đông công dân miền Nam Việt Nam tuyệt vọng tràn ngập ngoài cổng Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn. Làn sóng đầu tiên đến vào năm 1975 như một phần của 140.000 người của Đông Dương được sơ tán ban đầu qua lệnh của Tổng thống Gerald Ford. Những người tị nạn đó, hầu hết đều có trình độ học vấn và nói được một ít tiếng Anh, đã nhận được sự chào đón nồng nhiệt từ công chúng Mỹ mong muốn được xóa bỏ ít nhiều mặc cảm tội lỗi về việc quân đội Mỹ đột ngột rời khỏi miền Nam Việt Nam. Đến năm 1978, kinh tế Mỹ bắt đầu suy thoái và sự chào đón nồng nhiệt này không còn nữa (1).
Giữa những hình ảnh cánh đồng hoa anh túc và những chiến hào sũng nước trong ký ức chung về Thế Chiến I, ít ai để ý đến sự hiện diện của các trại tù binh chiến tranh ở vùng đảo British Isles. Nhưng trong suốt cuộc chiến, Anh đã giam giữ gần 116,000 người trong các trại tù binh trên khắp đất nước, từ Cung điện Alexandra ở London đến một trang trại cũ trên Đảo Isle of Man. Trong số đó có một võ sĩ đấm bốc và nghệ sĩ biểu diễn xiếc người Đức tên là Joseph Pilates.
Cựu Trung tướng Phạm Quốc Thuần đã qua đời vào lúc 8 giờ sáng ngày Thứ Sáu 18-8-2023 tại Fountain Valley, California, hưởng thọ 98 tuổi. Ông sinh ngày 31-8-1926 tại Hà Đông. Trung tướng Phạm Quốc Thuần giữ chức vụ Chỉ huy trưởng trường Bộ Binh (Thủ Đức) ngày 20-8-1969...
Bát Nhã Tâm Kinh của Phật học có câu “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Từ “sắc” trong câu kinh dùng để chỉ vật chất và những gì có hình tướng. Còn “không” là cái không bao giờ xẩy ra. Từ “không” được nhắc đến nhiều trong đạo Phật chính là “Chân Không Diệu Hữu”. Như vậy, “sắc tức thị không, không tức thị sắc” là nói đến “thật tướng” của vạn pháp và đấy chính là “vô tướng”, từ “cái không” do nhân duyên hợp lại thành “cái có”. Và, ngược lại, từ “cái có” tất yếu trở về “cái không”. Chu kỳ ấy là bất diệt, cứ tiếp nối nhau đến vô tận. Đó là cách tiếp cận theo triết học tôn giáo hay siêu hình học. Nhìn từ nhãn quan vật lý học, “cái có” có thể đến từ “cái không” được không? Theo thuyết Big Bang thì có vẻ là như thế. Vật chất tồn tại như ta nhìn thấy – hàng tỉ tỉ dải thiên hà, mỗi thiên hà có hàng tỉ tỉ ngôi sao, mỗi ngôi sao là một hệ thái dương có thể có nhiều hành tinh, mỗi hành tinh là một thế giới như quả đất chúng ta đang sinh sống – đến từ “cái không có gì”,
Nhân Lễ Tưởng Niệm Nhị vị Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy và Nguyễn Văn Bông được tổ chức ngày hôm nay 13/08/2023 tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng tiểu bang Victoria-Úc, Ban Tổ Chức có nhờ tôi chia sẻ đề tài “Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy nhà hoạt động chính trị chân chính”, dưới đây là một số điều tôi được biết về cuộc đời chính trị của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy.
✱ Đs Anh/Đs Lodge: Đề xuất của Hồ Chí Minh về một hiệp định đình chiến - Nhu đã đáp lại rằng đề xuất này "không thực tế" nhưng có thể trở thành thực tế trong ba hoặc bốn tháng tới và đang được nghiên cứu. ✱ Báo Espresso, Italia: Ông Nhu sẵn lòng từ bỏ viện trợ Mỹ nếu đó là cái giá phải trả để loại bỏ sự hiện diện của người Mỹ - Nhu cho biết Việt Nam có thể tồn tại mà không cần người Mỹ - Ông Nhu phản ứng phẫn nộ khi người Mỹ muốn ông rời khỏi đất nước. ✱ Nhà báo M.West,Úc: Ông Nhu nói rằng ông muốn tất cả, lặp lại, tất cả các cố vấn Mỹ đều phải rời đi - Không có người Mỹ, chúng ta có thể thắng chiến tranh trong hai hoặc ba năm - Hiện nay trong ngoại giao Mỹ ở Việt Nam, không có đạo đức. ✱ Đại sứ Lodge: Chúng ta nên xem xét việc rút quân là một khả năng ngày càng gia tăng. Sự bắt đầu của việc rút quân có thể gây ra một cuộc đảo chính...
Một nhóm khoa học giả quốc tế đã thấy bằng chứng lâu đời nhất về cà ri bên ngoài Ấn Độ và cho thấy ý nghĩa lịch sử của hành trình mà các thành phần gia vị này đã trải qua để đến đó. Các nhà nghiên cứu từ Úc, Việt Nam và Trung Quốc đã tìm thấy món ăn này – được biết đến với hương vị cay nồng của đất, có nguồn gốc từ Nam Á và hiện đã phổ biến trên toàn cầu – có lẽ đã được đưa đến bàn ăn của người Việt Nam hơn 1800 năm trước nhờ mạng lưới thương mại hàng hải.
Ở Hoa Kỳ, khi ai đó qua đời, thường thì họ sẽ được ướp xác, đặt trong quan tài và chôn cất tại nghĩa trang (thổ táng), hoặc mang đi hỏa táng, phần tro cốt sẽ được trả lại cho gia đình, người thân. Tuy nhiên, thổ táng và hỏa táng nay đã không phải là các lựa chọn duy nhất. Ngày càng có nhiều nhà tang lễ, cả các công ty khởi nghiệp và tổ chức vô vụ lợi, cung cấp cho mọi người những nghi thức khác nhau dành cho người đã khuất. Trong tương lai, bối cảnh nghi thức tang lễ sẽ đa dạng hơn…
Đã mấy năm nay, một nhóm tên "Sinh viên tranh đấu cho được nhập học công bằng" (Students for Fair Admissions) kiện Đại Học Harvard về tình trạng mà họ cho là bất công lúc xét các ứng viên Á châu nộp đơn vào trường đại học ưu tú này của Mỹ. Nhóm này cho rằng Harvard thực hành “affirmative action” (hành động khẳng định) và "racial balancing" (quân bình chủng tộc) trong quá trình quyết định ai được nhận ai bị từ chối. Nếu không, theo họ, nếu chỉ căn cứ trên thành tích học tập (academics) tỷ lệ sinh viên Á châu được nhận sẽ là 43% tổng số, hay ít lắm 26% nếu xét thêm về hoạt động ngoại khóa, thể thao hay gia đình quen biết với trường ("legacy"); chứ không thấp như mức 18.7% như hiện nay.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.