Hôm nay,  

Vẫn Đó Nụ Cười

23/10/200600:00:00(Xem: 24574)

Vẫn Đó Nụ Cười

(Hơn một tuần lễ qua, giới Phật giáo Việt nam trong lẫn ngoài nước đã mất đi một cội đại thọ, đã tắt đi một dòng suối mát ngọt ngào, đã rơi rụng một vì sao sáng, đã xa rời một bậc thạch trụ tài đức vô vàn.

Hôm nay, trước giờ phút tiễn biệt Ngài, trước chánh điện nguy nga thanh tịnh, với di ảnh từ bi hoan hỷ của Ngài, người viết chợt nhận ra nụ cười thanh tao, siêu tục của bậc Thầy xuất trần giải thoát. Nụ cười hiền không khác nụ cười Ca Diếp năm nào. Chính vì vậy, trong không khí ngầm ngùi của kẻ còn  tiễn người ra đi, không khí ẩn chứa tấm lòng trân kính của kẻ hậu học, xin mượn bài viết này như lời cung kính  tiễn biệt sau cùng. Vì tư tưởng thơ ca của Thiền sư thi sĩ Huyền Không rất dạt dào, mênh mông cao siêu, người viết chỉ xin trích dẫn một số bài thơ đặc biệt, mang thể thơ Lục Bát truyền thống và  mang nội dung nụ cười hoan hỷ như khi Ngài còn sinh tiền, để phủ phục dâng cúng lên Người. Những mong, qua dáng dấp và nụ cười của Thầy, vẫn còn in đậm trong lòng chúng Phật tử hữu duyên!)

Nói đến Ôn Mãn Giác, từ giới học giả uyên thâm Phật học, đến thành phần bình dân chơn chất, không ai không công nhận sự đóng góp của Ngài ở hai lãnh vực: Đạo và Đời.

Nhắc đến Ôn Mãn Giác, người Phật tử không chỉ đề cập đến những đóng góp của Ngài trong ngôi nhà Phật học, mà còn phải đề cập đến một nhà thơ lớn của văn giới Việt Nam. Ngài thật sự có phong cách riêng biệt của người sáng tác, có một vị trí quan trọng trong nghiên cứu Phật học, vì thế, Ôn Mãn Giác rất xứng đáng được tôn trọng, kính ngưỡng trong giới Phật học, rất xứng đáng được đặt một vị trí cao thượng trong vườn hoa dân tộc Việt Nam nói riêng và vườn hoa nhân loại nói chung.

Chính những tác phẩm Phật học được nghiên cứu nghiêm túc, những thi phẩm tuyệt vời của Ngài là nét đặt thù để trở thành những bằng chứng cụ thể, hiển nhiên, rõ ràng nhất.

Thơ Huyền Không –Mãn Giác là tiếng nói thật, là hơi thở thật và là sự sống thật của một người dấn thân nhập cuộc. Thái độ dấn thân của nhà thơ không còn hệ luỵ, vướng bận, nhiễm đục bởi não phiền, mà thong dong như mây trắng, vượt lên khỏi tầm nhìn của thế cuộc.

Thơ Huyền Không-Mãn Giác chính là trái tim của con người, đang thổn thức, đang nhẹ nhàng đưa máu về tim. Trong từng phút giây của thế giới kinh hoàng, vẫn đều đều thoi thóp để sinh soi nẩy nở hàng vạn đoá hoa huyền nhiệm, dâng hiến cho cuộc đời và nhân loại! Vì vậy, mỗi bài thơ của thi sĩ đều dung chứa cả một vũ trụ tuyệt vời, đều hứng chịu cả cuộc lữ của kiếp người hạn hẹp và sự sống thường hằng bất tận!

Như bao nhiêu nhà thơ Việt Nam khác, Huyền Không đã mai mắn tiếp nhận, thừa kế tất cả di sản văn hoá quí báu của dân tộc. Hơn thế nửa, trong tiến trình tu tập và hành đạo, Thiền sư đã có được những kinh nghiêm tâm linh riêng tư tuyệt vời, những kinh nghiệm tâm linh được chính nhà thơ thể nghiệm, trực nghiệm, thực nghiệm, để từ đó, chính những tâm linh được khai phóng này,  đã trở thành một trong những những nét đặc thù của dòng thơ Huyền Không.

Ai đã một lần được hạnh duyên tiếp kiến nhà thơ, đều một lần cảm nhận được nguồn tâm linh này. Nguồn tâm linh đó, được un đúc, rồi nở ra những nụ cười tươi vui, không chút xả giao, những nụ cười hoan hỷ, không niệm giận hờn. Hơn hết, không phải chỉ trong thơ ca của Người, mà ngay cả trong đời thường, con người của thi sĩ cũng chính là hình ảnh trong thi ca.

Những hình ảnh quê hương, con sông, giọt nước, mái chùa, ngôi đình là một trong những chất keo dính chặt vào đời thơ mình. Bởi vì, Huyền Không đã từng chiêm nghiệm được sức sống nhiệm mầu, đã từng hứng chịu cảnh ly tan đổ nát của chiến tranh, bom đạn, đã từng chạm mặt với sự chết của kiếp người đang đè nặng lên kiếp sống mong manh héo hắt và đã thấy được rõ ràng ngọn cỏ xưa xanh mãi, ngọn cỏ cuộc đời nhiều màu sắc ly kỳ vẫn đong đưa dưới ánh nắng ban mai, hay bóng hoàng hôn ngả xuống giữa chiều tà, hay ngọn cỏ nhỏ xíu vẫn hiên ngang đứng dưới bão tố phong ba cuộc đời và trên đôi môi hồng đỏ của thi sĩ Thiền sư vẫn mỉm cười hoan hỷ:

...

Cỏ xưa xanh mãi không vàng

Đong đưa giọt nước hiên ngang dưới trời

Bao nhiêu màu sắc đầy vơi

In trong giọt nước mỉm cười nắng reo (Giọt Nước Đầu Ngọn Cỏ- trang 20)

Giọt nước mỉm cười, ánh nắng reo vui đã tạo thành nhịp điệu chan hoà ấm áp.

Ngọn cỏ xanh mãi không vàng là cách nhìn của Thiền sư chứng đạo. Thấu hiểu vạn pháp thường hằng, thấy rõ trong cái cao ngất trùng trùng, còn có những giọt nước tịch lặng, luôn bám vúi, quyện chặt vào cuộc đời. Vì vậy, Thiền sư thi sĩ đã cho người đọc thưởng thức cái tịch lặng nhiệm mầu của tâm thức, cái bát ngát mênh mông của Phật tánh. Từ đó, Ôn  Mãn Giác lại còn cho người đời cảm nhận sự thanh thoát tự do của  mười phương ba cõi, thấy rõ đám mây trắng đang thong dong, phiêu bồng hoá hiện cuối chân trời phiêu lãng, rồi bật nụ cười nguyên sơ, nụ cười muôn đời của Ngài Ca Diếp năm nào, hay nụ cười của Thiền sư Huyền Không thời đại:

...

Ngàn năm mây trắng thong dong

Phiêu bồng hoá hiện mênh mông cuối trời

Còn đây, một đoá hồng tươi

Trên môi nhân loại nụ cười còn nguyên (Mây Trắng Thong Dong-trang 33)

Một đóa hồng tươi, một nụ cười trinh nguyên vẫn còn đó, vẫn như mây trắng thong dong bên vòm trời Hy Mã, hay vẫn như mây trắng của cõi lòng đang rộn rã hát ca, cất lên tiếng hát của Khúc Ca Chứng Đạo.

Bài thơ như một đánh động, như một hối thúc vào tâm thức người đọc, đồng thời, mặt dù là thể thơ Lục Bát, nhưng sức công phá của bài thơ còn hơn những trái bom được thử nghiệm nơi xứ Phù Tang năm nào, hay Bắc Hàn mới đây.

Nếu như súng đạn, vũ khí hạt nhân phá hoại, huỷ diệt mần sống nhân loại và môi trường, nếu như chiến tranh mang đến đau khổ, lầm than chết chốc, thì thơ của Huyền Không lại là dưỡng chất nuôi lớn tình người, kết sâu tình thân ái và ăn sâu vào ngõ ngách của tâm hồn người đọc-Đây chính là thi tài của nhà thơ lớn, chính là tâm đức của người liễu đạo. Cũng chính sự tự nhiên, như nhiên, minh nhiên và thong dong trong tâm thức tác giả, đã làm nẩy nở nhiều nhánh hoa tươi phụng hiến cho đời, đã mang về cho kiếp người những phút giây an lạc tuyệt vời và đã đóng góp cho ngày Phật Đản những nụ cười tươi mát đầy ấm áp tình thương của Sĩ Đạt Ta xa xưa:

...

Dù sao vẫn giữ môi cười

Khổ đau, mầu nhiệm chưa vơi trong lòng (Về Trong Phật Đản-trang 72)

Đối với Thiền sư thi sĩ, dẫu cuộc đời có trăm đắng ngàn cay, dẫu đường đời có khổ đau cùng cực, nhưng, trong mọi thể thái của tâm thức, mọi hành vi của tạo tác, tâm hồn luôn  hướng về đức Phật, cố gắng giữ mãi trên môi nụ cười bao dung, thì tất cả  buồn khổ hiu hắt cùng cực kia cũng bị hạn hẹp, co thắt lại.  Nụ hàm tiếu sẽ an hoà  dàn trãi rộng biên độ, những đoá hồng chớm nở, hoa lan hay tâm hoa của cõi lòng được nở nhuỵ khai hoa,  để khúc ca chân tình hoà điệu như nhất trong tâm thức mọi người và để hết thảy chúng sanh đều cảm nhận được giá trị của giải thoát khổ đau, thong dong tự tại trước những Tham-Sân-Si thấp cùng::

...

Người về ngắm đoá hoa hồng

Nhìn lên đức Phật mênh mông nụ cười

Xuân về muôn vạn hoa tươi

Thong dong tự tại trước lời sân si (Xuân Về-trang 73)

Giọng thơ ẩn chứa cả một thiết tha kêu gọi. Không phải lời kêu gọi của Thích Ca bên dòng sông Hằng tĩnh lặng năm xưa.  Không phải lời khai thị lặng thinh như sấm sét của tổ Bồ Đề Đạt Ma, sau chín năm diện bích trong Thiền sử Trung Hoa hôm nào. Càng không phải là kiểu Cáo Tật Thị Chúng của Thiền sư Mãn Giác thời Lý hay bài kệ tuyệt vời của quốc sư Vạn Hạnh, Việt nam cách đây hằng bao thế kỷ. Cũng không phải là thể cách của những áng thơ bất hủ trong làng thi văn Việt Nam cận đại. Nơi đây, ta thấy rõ ràng, chính Thiền sư thi sĩ Huyền Không đã tự tạo cho mình một sức sống thơ, một ý thức thơ, một hồn thơ lay láng, hoàn toàn mới như mùa xuân bất diệt, mới như ngọn lửa trong đêm đen mù mịt đốt cháy vô minh, để vĩnh hằng ngun ngút vượt khỏi mọi chi phối của thời gian và không gian hạn hữu.

Ở một bài thơ khác, nụ cười của thiền sư thi sĩ Huyền Không, đã làm người say mê thơ Ngài thấy trái tim tác giả rất dạt dào tình cảm, rất hào phóng tình huynh đệ.  Không chỉ đối với quê hương dân tộc, đối với chúng sanh nhân loại, mà còn đối với những bậc Thầy, mà chính nhà thơ đã chung sống từ thuở thiếu thời, đã trao cho nhau nhiều kỷ niệm ấn tượng đẹp trong khi thừa hành Phật sự. Quí ngài đã hy hiến đời mình cho dân tộc, đạo pháp. Tình cảm dạt dào thiêng liêng đó đã làm cho thơ của Thiền sư thi sĩ vốn dĩ đã hay lại càng hay thêm, đã thơm tho dịu mát lại cáng chất ngất đượm tình.

Quả thật, những thâm ân cao quí của các bậc xuất trần, đã tuyệt nhiên quên hẳn hạnh phúc cá nhân để dành cho chúng sanh vạn loại. Sự hy hiến cao cả này là bệ phóng trãi dài đến tận cùng sâu thẳm trong mỗi nhịp đập của trái tim trinh thành.

Nhị vị Hoà thượng Thích Thiện Minh và Thích Thiên Ân, là những bậc long tượng. Quí Ngài đã hiên ngang bước vào lửa đạn để gánh chịu đau thương cho tha nhân, đã chấp nhận mọi thiệt thòi của cá thể, để mang hạnh phúc tuyệt vời vĩnh hằng cho đại thể. Quí Ngài sẳn sàng chấp nhận số kiếp đoạ đày đau khổ trong vòng lao lý cơ cực, để mọi người có được cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc.

Thiền sư thi sĩ Huyền Không đã thấm thấu toàn triệt, đã thấy rõ tấm lòng hy hiến kia, đã kính quí tấm lòng của chư pháp hữu, để rồi, trong khổ đau luyến tiếc, Ngài nở nụ cười bất diệt, nở nụ cười hoan hỷ đón nhận mọi chi phối của vô thường.  Để rồi, trong khoảng không tĩnh lặng, một mình đốt nén trầm hương, một mình dỡ tranh kinh Hoa Nghiêm chiêm nghiệm, cho đời nụ cười thấu thị cảnh giới duyên khởi trùng trùng:

...

Bỗng nhiên ta nở môi cười

Khói hương mầu nhiệm rạng ngời Hoa Nghiêm

Trùng trùng duyên khởi bên thềm

Mái chùa xưa đã lặng yên thuở nào (Những Người Đi Qua-Tưởng niệm giác linh nhị vị Hoà thượng Thích Thiện Minh và Thích Thiên Ân-trang 89)

Đây là tình cảm thiết tha của Thiền sư thi sĩ đối với những pháp hữu đã vĩnh viễn trả tấm thân tứ đại về với bụi cát nhân duyên. Nhưng, chính những hình ảnh cao đẹp này, lại mãi mãi nằm sẳn trong Tạng thức A lại da. Nó gắn bó, dính chặt như khối óc và con tim, như hữu thể và vô thể, như thiên nhiên ngoại giới và cảnh giới nội quan.

Hơn thế nửa, đối với những pháp hữu đồng lêu còn sinh tiền, đang hoằng dương Phật pháp trên cõi Diêm phù, thì  tình cảm của Thiền sư thi sĩ Huyền Không cũng gắn bó ăn sâu, không bao giờ phai nhạt. Nó không cột chặt con người vào dòng chảy quá khứ, nhưng lại đưa con người trở về với thực tại nhiệm mầu, vượt qua bao thác ghềnh của không-thời gian:

Thiền sư đi trên đường

Áo rộng đầy tình thương

Thời gian không níu lại

Cười vang suốt đêm trường (Thiền Sư-trang 85) với Thiền Sư Nhất Hạnh

Hình ảnh hai vị Thiền sư của thời đại đang thênh thang cất bước trên đường giải thoát, đang dang tay áo rộng để ban trãi những trái ngọt yêu thương và tình thân ái cho nhân sanh.  Hình ảnh  nhị vị Thiền sư song hành, cất bước ngao du, không phải như những người thưởng lãm vị ngọt của cuộc đời, mà quí Ngài còn chấp nhận những đắng cay của cuộc đời, chấp nhận những đơn côi của kiếp người, mạnh dạng làm những kẻ độc hành trên đường giải thoát. Tuyệt đối không cô liêu hiu quạnh mà chứa đầy dáng dấp của tịch liêu, chứa đầy hương vị của thương yêu.

Chân đi dang rộng cả càn khôn địa giới, áo rộng phủ kín tình thương con người, làm cho thời gian và không gian như ngừng lại để chia vui.

Thời gian đối với Thiền sư thi sĩ chỉ là thứ thời gian được đúc cất bằng chất liệu hạnh phúc và nụ cười trên môi, cười suốt cả đêm trường.

Thời gian đối với người đạt đạo không phải là thời gian phá nát tâm hồn, không phải là thời gian huỹ diệt trái tim trinh khiết, không phải là thời gian áo não, chua cay, chất chứa những đau thương, ũ dột trong lòng.

Thời gian đối với người thấy trọn đường về, thênh thang cất bước, tuyệt đối không bị đóng khung trong những bức tường của  tham giận, kiêu căng, si mê lầm lạc, càng không phải là thời gian giam nhốt con người vào những định kiến, biên kiến của nhận thức tội lỗi sai lầm.

Để từ đây, Thiền sư thi sĩ Huyền Không là làm một cuộc khai phá mới, táo bạo và bất ngờ, nhưng vô cùng êm ái, dịu dàng. Nó có sức mạnh đẩy dần những đớn đau của vị kỷ, những thống khổ của  kiếp luân hồi, của tan biến vô thường, để, mặt đối mặt với chính mình, hát lên khúc ca của người đạt đạo nơi ngôi chùa Việt Nam thân yêu:

...

Thiền môn xưa sạch phong trần

Kim Cang kinh chép trầm luân thoát rồi

Ta từ sanh tử về chơi

Ngồi trên chót đỉnh mỉm cười với trăng… (Đạt Đạo-trang 91)

Phong trần đã sạch, tự tay mình chép kinh Kim Cang dâng cúng đức Phật. Rồi như một hoá kiếp, với nhãn quan Phật giới, Thiền sư thi sĩ lại thấy cuộc tử sinh giống như cuộc lữ đầy thi vị nên thơ. Nó không phải như những cuộc lữ của thế tình oan nghiệt, cay đắng. Trong cuộc lữ này, Thiền sư thi sĩ đã an nhiên ngồi trên chót đỉnh, để mỉm cười với trăng, để dấn thân vào cát trắng, hoá thành đôi bồ câu trắng cho hoà bình.

Trong cuộc chơi sanh tử, người thơ chưa bao giờ bị bứt tử, hay chưa bao giờ hoạnh tử. Hơn thế, tâm hồn trinh bạch, trái tim nguyên sơ của Thiền sư thi sĩ đã vượt lên chín tầng mây, thoát khỏi những kiếp đoạ đày và để lòng mình trên đỉnh non cao của bạt ngàn trí tuệ. 

Mặc khác, tác giả tuy đã ngồi trên chót đỉnh non cao, nhưng không bị lệ thuộc, không bị giam hãm trong những tâm lý buồn giận, hơn thua, luôn xé nát tâm hồn con người.

Thiền sư thi sĩ Huyền Không đã để cho tâm mình vượt lên trên mọi vùng sáng tối của ý thức, vượt lên trên mọi đối đãi nhị nguyên và cõi lòng luôn phát sáng, tỉnh thức.

Chính ánh sáng trí huệ bạt ngàn giữa muôn ngàn tinh tú, đã thôi thúc người thơ tiếp tục trò chơi sanh tử. Bởi vì, một khi đã tỉnh giấc chiêm bao rồi, thì mọi sự vật hiện tượng trong nội hàm lẫn ngoại giới đều rõ ràng nhận biết. Thấy rõ để tạo thành những ánh sáng thâm u, huyền bí, tạo thành những âm thanh tinh ảo, lấp lánh trên cao như báo hiệu một hồi quang phản chiếu:

...

Trong mơ thấy đoá hoa tươi

Bây giờ tỉnh dậy ta cười với ta

Giang tay đón cả Ta bà

Lòng nghe rợn ngợp hẳng sa kiếp rồi… (Tỉnh Giấc Chiêm Bao-trang 106)

Khi đã tỉnh giấc chiêm bao rồi thì tự mình hiểu ra, tự mình nở nụ hàm tiếu, nở ra để đón nhận hằng sa diệu thể. Đón nhận hương thơm từ cõi Ta bà dâng hiến. Nhận không cần điều kiện. Chính điều này đã là tâm hồn vô lượng của người thơ không bị nung nấu, không bị chi phối bởi cuộc đời.

Khi tâm hồn con người vượt ngoài ngã nhân, bỉ thử, là lúc tâm xuân đang phơi phới bên lòng. Tất cả những giải thoát thong dong cũng từ đây phát sinh, tất cả những u hiển huyền bí của đất trời cũng từ đây khai mở-trái tim con người được khai mở. Ngay lúc đó, những khổ đau phù phiếm thế gian không còn hiện hữu, những phù hư mộng ảo của kiếp người không còn chi phối. Tất nhiên, hương thơm đạo đức tâm linh sẽ toả ngát ngàn trùng, ánh sángtrí tuệ sẽ chiếu soi bạt ngàn, nhịp đập con tim êm ả, thiết tha diệu kỳ như dòng sông tĩnh lặng bao la sẽ sống mãi.  Thiền sư thi sĩ sẽ vui vẻ hứng lấy tất cả những thứ của trần gian, sẽ mang tất cả những gánh nặng nhất của con người mà không một mải mai than trách:

...

Bây giờ ta mới hiểu ra

Phù hư mộng ảo hằng sa kiếp người

Còn đây giọt lệ cuối rơi

Trần gian xin hứng cuộc đời xin mang (Giọt Lệ Cuối-trang 53)

Nói tóm, trong ngôi nhà thi ca nước Việt và trong kho tàng Thiền kệ Phật giáo, thi sĩ Thiền sư Huyền Không đã vô tình để lại nhiều bài thơ Thiền, giá trị văn chương, giá trị nghệ thuật cao và giá trị tâm linh rất hữu ích. Ngoài ra, khi tỉnh tâm tiếp xúc với thơ Huyền Không, người đọc còn nhận thấy nhiều thể loại, nhiều hình thức và đủ mọi chủ đề cũng được tác giả múa bút cho hoa, nhưng lại chứa đựng trong một trái tim trinh thành giải thoát.

Thơ Huyền Không-Mãn Giác là tiếng nói muôn đời của vô thuỷ, nhưng lại là pháp âm của thời đại mới. Đơn giản nhưng thâm u, hiển lộ nhưng kỳ bí, vừa mang dáng dấp rêu phong phủ kín của một ngôi chùa truyền thống, đơn sơ trơ gan cùng tuế nguyệt, nhưng lại mang dáng vẻ tân kỳ nguy nga tráng lệ, được điểm tô nhờ  ánh mặt trời lung linh toả chiếu rạng ngời.

Thơ của Thiền sư thi sĩ Huyền Không giống như dòng chảy của một dòng sông, có lúc mảnh liệt ì ầm thành tiếng thuỷ triều diệu huyền, có khi êm ả thành tiếng gió vi vu từ cõi chơn không, để tạo thành dòng nước mát tâm linh chất ngất, cuống xoay phần nào những vẩn đục của thế tình.

Thơ của thiền sư thi sĩ Huyền Không đã  thành công không chỉ ở phạm vi ngôn từ phong phú, nhiều hình ảnh, mà còn ở chính sức sống, kinh nghiệm tâm linh của nhà thơ, nhà tu hành được tưới mát sau bao năm tháng công phu.

Thơ của Thiền sư Huyền Không không chỉ có nước mắt khổ đau của cuộc đời, hay những giọt nước mắt của oan gia oán hận tha nhân, mà hầu hết đều có nụ cười reo vui, lạc quan yêu đời, trân trọng cuộc đời, trân quí tình người.

Thơ Ôn Mãn Giác là sự kết hợp ngôn ngữ kỳ đặc của tâm thức và cảm xúc, của tâm linh và chân tình. Thứ ngôn ngữ của trần gian nghèo túng, hạn cuộc, nhưng khi qua ngòi bút tài ba của Ôn, thì tự nhiên trở thành ngôn ngữ phong phú giàu sang siêu xuất thế gian.

Trong thơ Ôn, người đọc không thấy tác giả nhọc công đi tìm từng chữ, từng lời, để trao chuốc câu thơ, mà mỗi khi dòng cảm xúc tâm linh dâng trào qua năm tháng tịnh tu, thì tự động những hình ảnh lạ kỳ lấp lánh bất ngờ lại hiện hữu trong tứ thơ và lời thơ.

Vì vậy, công tâm mà nói, trong kho tàng thơ ca Thiền học Phật giáo, Thiền sư thi sĩ Huyền Không đã đóng góp rất nhiều để làm phong phú kho tàng Thiền kệ, đã nhẹ nhàng mở cửa Không môn để trang nghiêm cuộc đời qua hình thức thi ca. Những tác phẩm nghiên cứu Phật học kiệt tác, nặng về phần chất đã hiển nhiên trở thành những pho sách quí giá trong các thư viện, hoặc trên đầu giường của người Phật tử. Những thi phẩm tuyệt vời của Thi sĩ Huyền Không đặc biệt là thi phẩm Mây Trắng Thong Dong, đã trở thành hương thơm ngào ngạt, trở thành những phấn hoa để phụng hiến trong vườn hoa dân tộc và vườn thi ca thế giới. Người đọc sẽ cảm nhận sâu sắc về sức khám phá mới, vô cùng phong phú đầy hình tượng, âm thanh, nhiều màu sắc, gồm thâu cả vũ trụ thiên nhiên vô cùng hoà trong nhân gian hữu hạn. 

Sau cùng và trên hết, muốn hiểu và biết về Thiền sư Mãn Giác xin hãy tìm đọc thơ Thiền của thi sĩ Huyền Không trong thi phẩm Mây Trắng Thong Dong!

Chùa Phật Đà, Úc Châu

Ngày 22 tháng 10 năm 2006

Nhằm mùng 01 tháng 09 năm Bính Tuất

T.K.Thiện Hữu

Ghi chú: Những bài thơ trích dẫn trong bài viết này, được trích từ thi phẩm Mây Trắng Thong Dong của Huyền Không.

Nhà xuất bản Thanh Văn tại Califoria xuất bản. Năm 1993.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành tâm điểm trong lĩnh vực khoa học căn bản (basic science), góp phần định hình những bước tiến mới của nhân loại. Điều này càng được khẳng định rõ ràng hơn qua các Giải Nobel Hóa học và Vật lý năm 2024 khi cả năm người đoạt giải đều có điểm chung: có liên quan đến AI.
Trong ba chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump liên tục cam kết rằng ông sẽ điều hành chính phủ liên bang như một công ty. Giữ đúng lời hứa, ngay khi tái đắc cử, Trump đã bổ nhiệm tỷ phú công nghệ Elon Musk đứng đầu một cơ quan mới thuộc nhánh hành pháp mang tên Bộ Cải Tổ Chính Phủ (Department of Government Efficiency, DOGE). Sáng kiến của Musk nhanh chóng tạo ra làn sóng cải tổ mạnh mẽ. DOGE đã lột chức, sa thải hoặc cho nghỉ việc hàng chục ngàn nhân viên liên bang, đồng thời tuyên bố đã phát hiện những khoản chi tiêu ngân sách lãng phí hoặc có dấu hiệu gian lận. Nhưng ngay cả khi những tuyên bố của Musk đang được chứng minh sai sự thật, việc tiết kiệm được 65 tỷ MK vẫn chỉ là một con số chiếm chưa đến 1% trong tổng ngân sách 6.75 ngàn tỷ MK mà chính phủ Hoa Kỳ đã chi tiêu trong năm 2024, và là một phần vô cùng nhỏ nhoi nếu so với tổng nợ công 36 ngàn tỷ MK.
Trong bài diễn văn thông điệp liên bang trước Quốc Hội vừa qua, tổng thống Donald Trump tuyên bố nước Mỹ sẽ “will be woke no longer” – khẳng định quan điểm chống lại cái mà ông ta coi là sự thái quá của văn hóa “woke.” Tuyên bố này phản ánh lập trường của phe bảo thủ, những người cho rằng “wokeness” (sự thức tỉnh) là sự lệch lạc khỏi các giá trị truyền thống và nguyên tắc dựa trên năng lực. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần hiểu đúng về bối cảnh lịch sử của thuật ngữ “woke” để không có những sai lầm khi gán cho nó ý nghĩa tiêu cực hoặc suy đồi.
Chỉ với 28 từ, một câu duy nhất trong Tu Chính Án 19 (19th Amendment) đã mở ra kỷ nguyên mới cho phụ nữ Hoa Kỳ. Được thông qua vào năm 1920, tu chính án này đã mang lại quyền bầu cử cho phụ nữ sau hơn một thế kỷ đấu tranh không ngừng. Trong Hiến pháp Hoa Kỳ, Điều I của Tu Chính Án 19 quy định: “Chính phủ liên bang và tiểu bang không được phép từ chối hay ngăn cản quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ vì lý do giới tính.” (Nguyên văn là “The right of citizens of the United States to vote shall not be denied or abridged by the United States or by any State on account of sex.”)
Trong bối cảnh chính quyền Trump đẩy mạnh chiến dịch loại bỏ các chương trình Đa dạng, Bình đẳng và Hòa nhập (DEI), vai trò của phụ nữ trong lịch sử không chỉ là một chủ đề cần được khai thác mà còn là một chiến trường tranh đấu cho công lý và sự công nhận. Bất chấp sự ghi nhận hạn chế và thường xuyên bị lu mờ trong các tài liệu lịch sử, phụ nữ đã và đang đóng góp không thể phủ nhận vào dòng chảy của lịch sử thế giới. Các nhà sử học nữ, dẫu số lượng không nhiều và thường bị đánh giá thấp trong giới học thuật truyền thống, đã không ngừng nỗ lực nghiên cứu và đưa ra ánh sáng những câu chuyện về phụ nữ, từ đó mở rộng khung nhìn lịch sử và khẳng định vai trò của mình trong xã hội. Tháng Lịch sử Phụ nữ diễn ra vào tháng Ba hàng năm, đây không chỉ là dịp để tôn vinh những thành tựu của phụ nữ mà còn là lúc để xem xét và đánh giá những thách thức, cũng như cơ hội mà lịch sử đã và đang mở ra cho nửa thế giới này.
Theo báo điện tử vnexpress.net, từ ngày USAID tái hoạt động tại Việt Nam, Mỹ đã hợp tác với Việt Nam để giải quyết các hậu quả do chiến tranh gây ra, bao gồm việc rà phá bom mìn, xử lý vật liệu nổ, tìm kiếm binh sĩ mất tích và xử lý chất độc da cam/dioxin. Từ năm 2019, USAID đã hợp tác với Bộ Quốc phòng Việt Nam để xử lý khoảng 500.000 mét khối đất nhiễm dioxin tại căn cứ Không quân Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Vào tháng Giêng năm 2024, Hoa Kỳ cam kết bổ sung thêm 130 triệu Mỹ kim, nâng tổng kinh phí cho việc làm sạch dioxin lên 430 triệu. Không rõ bây giờ USAID bị đóng băng, số bổ sung cam kết ấy có còn. Ngoài việc giúp giải quyết các hậu quả chiến tranh, USAID đã đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WHO) và Hiệp định song phương Việt Nam-Hoa Kỳ.
Elizabeth Eckford, một trong chín học sinh da đen tiên phong bước vào trường Trung học Little Rock Central năm 1957, đã trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm trong cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc tại Hoa Kỳ. Kể từ ngày khai trường lịch sử ấy đến nay, cuộc đấu tranh chống kỳ thị chủng tộc ở Hoa Kỳ đã đạt nhiều tiến bộ đáng kể, cho đến gần đây, Donald Trump lên nắm quyền và ra lệnh xóa bỏ toàn bộ chính sách Đa dạng, Công bằng và Hòa nhập (DEI) trên khắp đất nước thúc đẩy sự gia tăng của các hành vi thù ghét trên toàn quốc, câu chuyện của Eckford càng trở nên cấp thiết. Việt Báo đăng lại câu chuyện lịch sử này như lời nhắc nhở quyền bình đẳng không thể bị xem là điều hiển nhiên, và cuộc đấu tranh cho công lý, bình đẳng vào lúc này thực sự cần thiết.
Năm 1979, Steve cho xuất bản Indochina Newsletter là tài liệu liên quan đến các vi phạm nhân quyền tại Việt Nam sau ngày 30/4/1975, sau đổi tên thành Indochina Journal, rồi Vietnam Journal. Tôi và vài người Việt nữa đã cùng làm việc với Steve trong việc phối kiểm tin tức liên quan đến tù nhân lương tâm và dịch nhiều tài liệu của các phong trào đòi tự do dân chủ tại Việt Nam sang tiếng Anh, như Cao trào Nhân bản của Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Diễn đàn Tự do của Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, các bài giảng về sám hối vào Mùa chay 1990 của linh mục Chân Tín, cũng như những tuyên cáo về tình trạng thiếu tự do tôn giáo của các Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thượng tọa Thích Trí Siêu Lê Mạnh Thát; của Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, Linh mục Nguyễn Văn Lý.
Mục tiêu ban đầu khi Tổng thống John F. Kennedy thành lập USAID trong cuộc chiến tranh lạnh với Nga vào năm 1961, nội các của ông không chỉ nhắm đến các viện trợ dân sự và nhân đạo mà còn mang mục đích sâu xa hơn: Đó là sự ổn định và phát triển của các quốc gia khác sẽ bảo vệ cho nền an ninh quốc gia Hoa Kỳ. Mục đích này vẫn không thay đổi sau hơn sáu thập niên hoạt động của USAID, qua nhiều đời tổng thống Mỹ. Bởi lợi ích của nước Mỹ nằm khắp thế giới, những sự giúp đỡ, viện trợ trước mắt mang lại lợi ích chiến lược lâu dài cho nước Mỹ. Các nghiên cứu về USAID cho thấy quyền lực mềm của nước Mỹ do USAID đã mang lại thiện cảm về nước Mỹ, giúp hàng hóa, sản phẩm Mỹ được ưa chuộng tại các thị trường nội địa và gián tiếp giúp cho các tập đoàn Mỹ nhận được các hợp đồng kinh tế to lớn so với các đối thủ. Ngược lại, khi thiện cảm này bị mất đi, hay thậm chí bị ghét bỏ, làn sóng tẩy chay hàng Mỹ là lẽ đương nhiên. Những chương trình giáo dục, huấn nghệ cho trẻ em các nước chiến tranh
Doanh nhân Donald Trump đã khởi xướng trào lưu dân tuý và hai lần thắng cử tổng thống. Ngay khi xuất hiện lần đầu tiên trên chính trường để vận động tranh cử năm 2016, Trump không có tham vọng thu tóm quyền lãnh đạo Đảng Cộng hoà trong ý tưởng thù địch, mặc dù thể hiện nhiều quan điểm chống đối gay gắt. Ngược lại, ngày nay, "chủ thuyết Trump" chế ngự toàn diện mọi sinh hoạt của đất nước. Thực ra, khi nhìn lại hoạt động của Đảng trong thời hiện đại, đây là kết quả của một tiến trình dài nhằm tái định hình chiến lược bảo thủ mà Đảng đã đề ra vào những năm 1960.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.