Hôm nay,  

Vấn Đề Đổi Tên?

07/04/200600:00:00(Xem: 6646)
- Trong những ngày vừa qua, trên mạng lưới Internet đã đăng tải một bài viết có tựa đề 'Đảng Của Dân Tộc' của giáo sư Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện xã hội học ở Hà Nội. Trong bài viết này, tác giả đề nghị đảng Cộng sản Việt Nam nên trở lại với tên đảng Lao Động Việt Nam cùng với tên nước là Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Giáo sư Tương Lai cho rằng, thời đại hiện nay khái niệm về 'giai cấp' đã thay đổi, vì thế mà nhận thức về lực lượng cách mạng cũng đổi thay trên ba nền tảng:

Một là các dân tộc thuộc địa, nửa thuộc địa bị áp bức, mà có nhà nghiên cứu cộng sản coi là giai cấp vô sản của thế kỷ 20 nổi lên đấu tranh đòi giải phóng....ngày nay không còn nữa.

Hai là kết cấu của xã hội hiện đại cho thấy sự phát triển mạnh của nhiều tầng lớp xã hội rất gần với khái niệm ' giai cấp những người sản xuất' và 'những người làm công ăn lương' mà không phải là giai cấp vô sản nghĩa hẹp. Ở Việt Nam cũng vậy.

Ba là các dân tộc thức tỉnh và tự khẳng định mạnh mẽ, ngay trong trào lưu toàn cầu hóa kinh tế, dân tộc trở thành động lực và sức mạnh hùng hậu của thời đại.

Từ những quan điểm này, giáo sư Tương Lai cho rằng, đảng Cộng sản không nên tiếp tục dựa trên giai cấp 'vô sản' vì giai cấp này trong thực tế đã biến đổi là những người sản xuất, làm công ăn lương và đang vươn lên thành giai cấp dân tộc" Chính vì thế mà ông cho rằng đảng Cộng sản phải biến đổi, không nên là đội tiên phong của giai cấp công nhân vô sản mà phải là đảng của những người lấy lợi ích dân tộc là tối thượng" Từ đó ông đề nghị đảng phải thay đổi tên, không nên tiếp tục câu nệ vào những giáo điều đã bị cuộc sống vứt bỏ, để đảng phải là đảng của dân tộc.

Những tiền đề mà giáo sư Tương Lai đặt ra để dẫn dắt những lý luận của mình đi đến đề nghị đảng Cộng sản Việt Nam nên đổi tên, không có gì sai trật vì ngày nay, giai cấp vô sản đã không còn. Hơn thế nữa, chính đảng Cộng sản Việt Nam còn theo chân Trung Quốc, chấp nhận cho đảng viên tham gia vào các hoạt động kinh doanh làm giàu kể từ sau đại hội toàn đảng lần thứ X, thì việc cho rằng đảng Cộng sản, đảng của giai cấp công nhân lao động không những không còn mang ý nghĩa cách mạng mà đã trở thành một sự lố bịch.

Trong bài viết, giáo sư Tương Lai đã cố đánh bóng vị trí dân tộc của đảng Cộng sản qua cái gọi là 'công lao' chống Pháp, chống Mỹ giành độc lập. Từ đó, ông cho rằng nếu đổi tên, đảng Cộng sản sẽ trở thành đảng của dân tộc. Cách lý luận này không ổn và bị tiêm nhiễm những giải thích quanh co của những nhà lý luận cộng sản về 'công lao' chống Mỹ, chống Pháp để biện minh về sự độc quyền cai trị của đảng trong mấy chục năm qua. Từ nhiều năm qua, những lý thuyết gia Cộng sản đã đứng trên tiền đề rằng đảng Cộng sản đã có công 'giải phóng' đất nước ra khỏi sự thống trị của Pháp, của Mỹ nên vì thế mà đảng phải lãnh đạo đất nước vì không có lực lượng nào khác có khả năng cũng như không có công như đảng Cộng sản Việt Nam" Trong khi thực tế lịch sử, ai cũng thấy rằng đảng Cộng sản Việt Nam đã cướp công kháng Pháp của toàn dân vào năm 1945 và đã đưa dân tộc vào cảnh tang tóc chỉ vì tham vọng vô sản hóa toàn miền Nam Việt Nam sau năm 1954, theo chỉ thị của quan thầy Liên Xô. Chính vì bị nhầm lẫn như vậy, giáo sư Tương Lai đã đưa ra một đề nghị thiếu thực tế. Tại sao"

Thứ nhất, vấn đề trì trệ của đất nước hiện nay không phải là vì cái tên đảng Cộng sản hay tên Nước xã hội chủ nghĩa mà chính là những con người cộng sản đã không biết đặt quyền lợi đất nước cao hơn quyền lợi của phe nhóm hay của chủ nghĩa. Họ đã có rất nhiều cơ hội để thực hiện nguyện vọng chung của dân tộc là xây dựng một đất nước tự do, dân chủ và độc lập sau năm 1945, năm 1954, năm 1975, năm 1991... nhưng họ đã không làm.

Thứ hai, nếu không cố bám vào cái gọi là định hướng xã hội chủ nghĩa hay đội tiên phong của giai cấp công nhân vô sản.... những người cộng sản Việt Nam không còn bất cứ một cái gì để biện minh cho sự cầm quyền độc tôn hiện nay. Nghĩa là nếu họ dựa vào những lý luận Mác Lê - tuy đã cuối mùa- ít ra giúp cho họ an trú trong lúc vơ vét tài sản để bỏ chạy, còn nếu phải bỏ tất cả để về với dân tộc... thì họ chỉ còn là những tên tội đồ ngoan cố.

Thứ ba, thay đổi tên đảng hay tên nước không phải là việc làm khó khăn. Vấn đề đặt ra là tại sao phải thay đổi" và sự thay đổi đó có tốt hơn hay không" Nếu thay đổi tên mà bản chất của những người lãnh đạo vẫn tiếp tục như thời gian qua, thì chẳng khác nào thay đổi lớp sơn trên một thứ gỗ đã mục hay quá tồi.

Nói tóm lại, đề nghị đổi tên đảng và tên nước của giáo sư Tương Lai là một nhắc nhở cho giới lãnh đạo Hà Nội về quyền lợi của dân tộc. Nhưng sự đề nghị của ông đã thiếu phần nhận diện về bản chất thật của những người lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam nên người đọc đã thấy cái nhìn của ông thiếu thực tế. Hơn thế nữa, dù đảng Cộng sản có tuyên bố đổi tên đảng hay tên nước đi chăng nữa mà nền tảng chính trị vẫn nằm trong sự khống chế toàn diện của một thiểu số độc tài, thì chẳng khác nào hành động 'đánh bùn sang ao' mà thôi.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày 3 tháng 4, 2014 là ngày mất của nhà đấu tranh Ngô Văn Toại. Mời đọc lại bài phóng sự SV Ngô Vương Toại bị Việt Cộng bắn tại trường Văn Khoa SG hôm tổ chức đêm nhạc Trịnh Cộng Sơn - Khánh Ly tháng 12, năm 1967, Sài Gòn.
Theo thời gian, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, số lượng Tăng, Ni đến định cư ở Mỹ ngày càng đông, theo diện vượt biển và vượt biên tị nạn Cộng Sản (từ 1975 đến 1989), theo Chương Trình Ra Đi Trật Tự (Orderly Departure Program - ODP) và Chiến Dịch Nhân Đạo (The Humanitarian Operation - HO) (từ 1980 đến 1997), hay theo diện hỗ trợ sinh hoạt tôn giáo được các chùa, các tổ chức Phật Giáo ở Mỹ bảo lãnh kể từ đầu những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3. Các vị Tăng, Ni này định cư ở Mỹ dù thuộc diện nào thì đều mang theo mình sứ mệnh hoằng dương Chánh Pháp của Đức Phật, duy trì và phát huy truyền thống văn hóa của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam tại xứ người. Đây là động lực chính hình thành các cộng đồng Phật Giáo Việt Nam ở Mỹ trải dài nửa thế kỷ qua.
Trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành tâm điểm trong lĩnh vực khoa học căn bản (basic science), góp phần định hình những bước tiến mới của nhân loại. Điều này càng được khẳng định rõ ràng hơn qua các Giải Nobel Hóa học và Vật lý năm 2024 khi cả năm người đoạt giải đều có điểm chung: có liên quan đến AI.
Trong ba chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump liên tục cam kết rằng ông sẽ điều hành chính phủ liên bang như một công ty. Giữ đúng lời hứa, ngay khi tái đắc cử, Trump đã bổ nhiệm tỷ phú công nghệ Elon Musk đứng đầu một cơ quan mới thuộc nhánh hành pháp mang tên Bộ Cải Tổ Chính Phủ (Department of Government Efficiency, DOGE). Sáng kiến của Musk nhanh chóng tạo ra làn sóng cải tổ mạnh mẽ. DOGE đã lột chức, sa thải hoặc cho nghỉ việc hàng chục ngàn nhân viên liên bang, đồng thời tuyên bố đã phát hiện những khoản chi tiêu ngân sách lãng phí hoặc có dấu hiệu gian lận. Nhưng ngay cả khi những tuyên bố của Musk đang được chứng minh sai sự thật, việc tiết kiệm được 65 tỷ MK vẫn chỉ là một con số chiếm chưa đến 1% trong tổng ngân sách 6.75 ngàn tỷ MK mà chính phủ Hoa Kỳ đã chi tiêu trong năm 2024, và là một phần vô cùng nhỏ nhoi nếu so với tổng nợ công 36 ngàn tỷ MK.
Trong bài diễn văn thông điệp liên bang trước Quốc Hội vừa qua, tổng thống Donald Trump tuyên bố nước Mỹ sẽ “will be woke no longer” – khẳng định quan điểm chống lại cái mà ông ta coi là sự thái quá của văn hóa “woke.” Tuyên bố này phản ánh lập trường của phe bảo thủ, những người cho rằng “wokeness” (sự thức tỉnh) là sự lệch lạc khỏi các giá trị truyền thống và nguyên tắc dựa trên năng lực. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần hiểu đúng về bối cảnh lịch sử của thuật ngữ “woke” để không có những sai lầm khi gán cho nó ý nghĩa tiêu cực hoặc suy đồi.
Chỉ với 28 từ, một câu duy nhất trong Tu Chính Án 19 (19th Amendment) đã mở ra kỷ nguyên mới cho phụ nữ Hoa Kỳ. Được thông qua vào năm 1920, tu chính án này đã mang lại quyền bầu cử cho phụ nữ sau hơn một thế kỷ đấu tranh không ngừng. Trong Hiến pháp Hoa Kỳ, Điều I của Tu Chính Án 19 quy định: “Chính phủ liên bang và tiểu bang không được phép từ chối hay ngăn cản quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ vì lý do giới tính.” (Nguyên văn là “The right of citizens of the United States to vote shall not be denied or abridged by the United States or by any State on account of sex.”)
Trong bối cảnh chính quyền Trump đẩy mạnh chiến dịch loại bỏ các chương trình Đa dạng, Bình đẳng và Hòa nhập (DEI), vai trò của phụ nữ trong lịch sử không chỉ là một chủ đề cần được khai thác mà còn là một chiến trường tranh đấu cho công lý và sự công nhận. Bất chấp sự ghi nhận hạn chế và thường xuyên bị lu mờ trong các tài liệu lịch sử, phụ nữ đã và đang đóng góp không thể phủ nhận vào dòng chảy của lịch sử thế giới. Các nhà sử học nữ, dẫu số lượng không nhiều và thường bị đánh giá thấp trong giới học thuật truyền thống, đã không ngừng nỗ lực nghiên cứu và đưa ra ánh sáng những câu chuyện về phụ nữ, từ đó mở rộng khung nhìn lịch sử và khẳng định vai trò của mình trong xã hội. Tháng Lịch sử Phụ nữ diễn ra vào tháng Ba hàng năm, đây không chỉ là dịp để tôn vinh những thành tựu của phụ nữ mà còn là lúc để xem xét và đánh giá những thách thức, cũng như cơ hội mà lịch sử đã và đang mở ra cho nửa thế giới này.
Theo báo điện tử vnexpress.net, từ ngày USAID tái hoạt động tại Việt Nam, Mỹ đã hợp tác với Việt Nam để giải quyết các hậu quả do chiến tranh gây ra, bao gồm việc rà phá bom mìn, xử lý vật liệu nổ, tìm kiếm binh sĩ mất tích và xử lý chất độc da cam/dioxin. Từ năm 2019, USAID đã hợp tác với Bộ Quốc phòng Việt Nam để xử lý khoảng 500.000 mét khối đất nhiễm dioxin tại căn cứ Không quân Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Vào tháng Giêng năm 2024, Hoa Kỳ cam kết bổ sung thêm 130 triệu Mỹ kim, nâng tổng kinh phí cho việc làm sạch dioxin lên 430 triệu. Không rõ bây giờ USAID bị đóng băng, số bổ sung cam kết ấy có còn. Ngoài việc giúp giải quyết các hậu quả chiến tranh, USAID đã đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WHO) và Hiệp định song phương Việt Nam-Hoa Kỳ.
Elizabeth Eckford, một trong chín học sinh da đen tiên phong bước vào trường Trung học Little Rock Central năm 1957, đã trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm trong cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc tại Hoa Kỳ. Kể từ ngày khai trường lịch sử ấy đến nay, cuộc đấu tranh chống kỳ thị chủng tộc ở Hoa Kỳ đã đạt nhiều tiến bộ đáng kể, cho đến gần đây, Donald Trump lên nắm quyền và ra lệnh xóa bỏ toàn bộ chính sách Đa dạng, Công bằng và Hòa nhập (DEI) trên khắp đất nước thúc đẩy sự gia tăng của các hành vi thù ghét trên toàn quốc, câu chuyện của Eckford càng trở nên cấp thiết. Việt Báo đăng lại câu chuyện lịch sử này như lời nhắc nhở quyền bình đẳng không thể bị xem là điều hiển nhiên, và cuộc đấu tranh cho công lý, bình đẳng vào lúc này thực sự cần thiết.
Năm 1979, Steve cho xuất bản Indochina Newsletter là tài liệu liên quan đến các vi phạm nhân quyền tại Việt Nam sau ngày 30/4/1975, sau đổi tên thành Indochina Journal, rồi Vietnam Journal. Tôi và vài người Việt nữa đã cùng làm việc với Steve trong việc phối kiểm tin tức liên quan đến tù nhân lương tâm và dịch nhiều tài liệu của các phong trào đòi tự do dân chủ tại Việt Nam sang tiếng Anh, như Cao trào Nhân bản của Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Diễn đàn Tự do của Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, các bài giảng về sám hối vào Mùa chay 1990 của linh mục Chân Tín, cũng như những tuyên cáo về tình trạng thiếu tự do tôn giáo của các Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thượng tọa Thích Trí Siêu Lê Mạnh Thát; của Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, Linh mục Nguyễn Văn Lý.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.