Hôm nay,  

Việt Minh Là Gì?

06/09/200600:00:00(Xem: 11634)

Mặt trận Việt Minh là tổ chức đã cướp chính quyền tại Hà Nội năm 1945, cách đây trên 60 năm.  Nhiều bạn trẻ có lẽ cần biết rõ Việt Minh là gì"

Việt Minh là chữ viết tắt của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội.  Do nhu cầu liên kết những nhà hoạt động cách mạng Việt Nam ở Trung Hoa, Hồ Học Lãm cùng Nguyễn Hải Thần, với sự giúp đỡ của Quốc Dân Đảng Trung Hoa, thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh, tại Nam Kinh, vào tháng 1-1936. Hội xuất bản báo Việt Thanh [Tiếng nói Việt Nam] bằng chữ Hoa, dùng làm cơ quan ngôn luận.(1)  Ngoài Hồ Học Lãm và Nguyễn Hải Thần, các hội viên nòng cốt khác là Nguyễn Thức Canh, Đặng Nguyên Hùng, Hoàng Văn Hoan (bí danh là Lý Quang Hoa, thuộc chi bộ Vân Quý tức Vân Nam Quý Châu của cộng sản) ... 

Năm 1937, Hồ Học Lãm đến hoạt động ở Hồ Nam, và lấy bí danh là Hồ Chí Minh.(1)  Cũng trong năm nầy, chiến tranh giữa Trung Hoa và Nhật Bản bùng nổ, nên những hoạt động của hội mờ lạt dần.  Hồ Học Lãm lại già yếu, di tản theo các đoàn quân Quốc Dân Đảng Trung Hoa chống Nhật, nên Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội tức Việt Minh chỉ còn trên danh xưng, chứ không hoạt động gì nhiều.

Trong khi đó, vào mùa thu năm 1940, tướng Lý Tế Thâm (Quốc Dân Đảng Trung Hoa) giao cho Trương Bội Công ở Quảng Tây tổ chức Việt Nam Giải Phóng Uỷ Viên Hội, với mục đích quy tụ Việt kiều và những người Hoa đã từng sống ở Việt Nam, nhắm thi hành kế hoạch của Tưởng Giới Thạch, tổ chức đưa người về Bắc Việt để chống Nhật và làm giảm bớt áp lực Nhật ở Trung Hoa.  Trương Bội Công mời Nguyễn Hải Thần, Hồ Học Lãm, cùng chiêu mộ một số người Việt tỵ nạn để thành lập lực lượng quân sự.(2a)

Hồ Học Lãm báo cho cho nhóm Hoàng Văn Hoan biết tin nầy.  Theo lệnh của Hồ Quang, nhóm Hoàng Văn Hoan lôi kéo Hồ Học Lãm tách ra khỏi ảnh hưởng của Trương Bội Công, vừa làm mất uy tín họ Trương trước các tướng lãnh Quốc Dân Đảng Trung Hoa, vừa nhắm tính mưu kế chiếm dụng danh xưng hợp pháp của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội của Hồ Học Lãm để hoạt động.  

Hồ Quang chính là Nguyễn Ái Quốc.  Nguyên vào năm 1937, hai phe Quốc Cộng tại Trung Hoa liên kết, cùng nhau chống Nhật.  Nhật Bản đánh chiếm Nam Kinh tháng 11-1937.  Tình hình thuận lợi cho đảng Cộng Sản Trung Hoa họat động công khai trở lại.  Liên Xô quyết định gởi Nguyễn Ái Quốc qua Trung Hoa, có thể vừa làm công tác tình báo, vừa chuẩn bị cho cuộc nổi dậy của cộng sản ở Đông Dương.  Vào đầu năm 1939, Nguyễn Ái Quốc đến Hoa Nam với bí danh mới là Hồ Quang.(2b)  

Nhờ sự giới thiệu của Hồ Học Lãm, vào gần cuối năm 1940, Lâm Bá Kiệt (bí danh của Phạm Văn Đồng) Dương Hoài Nam (bí danh của Võ Nguyên Giáp), Trịnh Đông Hải (bí danh của Vũ Kiện), Phùng Chí Kiên (bí danh của Mạch Văn Liệu), Cao Hồng Lĩnh, Lý Quang Hoa (bí danh Hoàng Văn Hoan), tức là toàn các đảng viên cộng sản, dưới vỏ bọc Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (Việt Minh), đến Quế Lâm gặp Lâm Uất, Phó chủ nhiệm hành dinh tây nam của Tưởng Giới Thạch.  Lâm Uất đưa nhóm nầy đến gặp chủ nhiệm của ông ta là Lý Tế Thâm.(3a) 

Trong cuộc tiếp kiến với Lý Tế Thâm, nhóm nầy trình cho họ Lý một bản tóm lược lai lịch của Việt Minh, và giới thiệu "Biện sự xứ của Việt Minh ở hải ngoại" do Hồ Học Lãm làm chủ nhiệm, Lâm Bá Kiệt (Phạm Văn Đồng) làm phó chủ nhiệm.  Do tin cậy Hồ Học Lãm, cả Lâm Uất lẫn Lý Tế Thâm đều không biết nhóm nầy là những đảng viên Cộng Sản Việt Nam (CSVN), nên đã giúp đỡ họ.  "Qua cuộc nói chuyện với Lý Tế Thâm như vậy, cái danh nghĩa Việt Minh thực tế đã được thừa nhận, và cái danh nghĩa Biện sự xứ Việt Minh cũng mặc nhiên thành ra hợp pháp."(3b)  

Cũng khoảng đầu thu 1940, Hồ Quang (Nguyễn Ái Quốc) cử người đến Diên An, trung tâm chỉ huy của đảng Cộng Sản Trung Hoa (CSTH) để ký mật ước với đảng nầy, theo đó đại diện đảng CSTH tại cục Tình báo Á châu của Đệ tam Quốc tế Cộng sản sẽ lãnh đạo công tác của CSVN.  Cộng Sản Việt Nam sẽ cử cán bộ đến Diên An thụ huấn, và CSTH sẽ trợ cấp cho CSVN 50,000 quan Pháp mỗi tháng để trang trải chi phí sinh hoạt tại Trung Hoa.(4a)  Từ đây, tuy bề ngoài ít liên lạc, nhưng thực chất bên trong, đảng CSTH đã ngầm chỉ đạo và giúp đỡ mọi hoạt động của CSVN.

Vào đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước, đặt căn cứ ở hang Pắc Bó, châu Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng.  Sau khi củng cố nội bộ, huấn luyện đảng viên, phát triển cơ sở, Nguyễn Ái Quốc tổ chức Hội nghị Trung ương đảng CSĐD lần thứ 8 vào tháng 5-1941, đưa Trường Chinh Đặng Xuân Khu (1909-1988) lên làm tổng bí thư đảng CSĐD.

Ngày 19-5-1941, mặt trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh ra mắt công khai tại Cao Bằng.(4b)  Từ đó, những đảng viên cộng sản Việt Nam, nhân viên của Quốc tế Cộng sản Nga Hoa, hoạt động ở Trung Hoa cũng như ở trong nước Việt Nam đều núp dưới danh xưng Việt Minh, đã đánh lừa được nhiều người ngoại quốc cũng như Việt Nam. 

Trước kia, năm 1919, Nguyễn Tất Thành chiếm dụng tên chung của các ông Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền là Nguyễn Ái Quốc, làm tên của riêng mình.  Nay Nguyễn Ái Quốc lấy luôn tên Hồ Chí Minh, bí danh của Hồ Học Lãm, làm tên riêng của mình.  Theo lời tác giả Trần Quốc Vượng, Hồ Chí Minh thích thú với tên nầy vì ông nội đích thực của Hồ Chí Minh (Nguyễn Ái Quốc) là Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải Nguyễn Sinh Nhậm.(5)  Cũng giống như Hồ Chí Minh, đảng CSĐD lấy tên Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh, do Hồ Học Lãm thành lập ở Nam Kinh năm 1936, làm tên mặt trận của đảng CSĐD.  Từ đó, người Việt Nam cứ tưởng rằng Mặt trận Việt Minh do Hồ Chí Minh lập ra.

Hồ Chí Minh và Mặt trận Việt Minh mới, gồm đa số là đảng viên cộng sản, nắm rõ sự biến chuyển của tình hình thế giới nhờ thông tin của Đệ tam Quốc tế cộng sản và cả của OSS (Office of Strategic Services), tổ chức tình báo của Hoa Kỳ, tiền thân của CIA (Central Intelligence Agency), do Việt Minh đã hợp tác với và cung cấp tin tức cho OSS về những hoạt động của quân đội Nhật Bản ở Đông Dương. 

Từ tháng 4-1945, Việt Minh bắt đầu tổ chức Uỷ ban Giải phóng tại các vùng họ hoạt động, thống nhất các lực lượng võ trang thành Việt Nam Giải phóng quân, và thành lập Uỷ ban Dân tộc Giải phóng vào tháng 7-1945.  Vì vậy, ngay khi Nhật đầu hàng ngày 14-8-1945, trong lúc lãnh tụ các đảng phái quốc gia chưa trở tay kịp, vì thiếu thông tin liên lạc quốc tế và thiếu chuẩn bị khởi nghĩa, thì Việt Minh ra lệnh cướp chính quyền ở khắp các tỉnh trong nước. 

Ở Hà Nội, ngày 17-8-1945, Tổng hội công chức tổ chức cuộc mít-tin tại Nhà hát lớn, nhắm ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim.  Việt Minh liền chụp lấy thời cơ, biến thành cuộc biểu tình tuần hành ủng hộ Mặt trận Việt Minh.  Ngày 19-8-1945, Việt Minh tổ chức biểu tình cướp chính quyền Hà Nội.  Lợi dụng hoàn cảnh hỗn loạn, Việt Minh gán cho những nhân vật có khuynh hướng quốc gia là "Việt gian", "phản động" và kiếm cách thủ tiêu họ, để tiêu diệt tất cả các thành phần không cộng sản hoặc đối lập. 

TRẦN GIA PHỤNG

(Toronto, Canada)

1. Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, Nxb. Văn Hóa, Houston, 1997, tr. 168.  Ngoài ra, xin đọc thêm Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, hồi ký, Portland: 1991, tt. 102-105.

2. Chính Đạo, Hồ Chí Minh, con người và huyền thoại, tập II, Houston, Nxb. Văn Hóa, 1993, tr. 246 (2a), 176-178 (2b).

3. Hoàng Văn Hoan, sđd. tr. 134 (3a), 135 (3b).

4. Tưởng Vĩnh Kính, Nhất cá Việt Nam dân tộc chủ nghĩa đích ngụy trang giả, Nxb. Truyện Ký Văn Học, Đài Bắc, 1972, bản dịch của Thượng Huyền, Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, Nxb. Văn Nghệ, California, 1999, tt. 167-168 (4a), tr. 201 (4b).

5. Trần Quốc Vượng, Trong cõi, Nxb. Trăm Hoa, California, 1993, tr. 258. Trong bài "Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia (kinh nghiệm điền dã)" của sách nầy, phần cuối cho biết rằng ông Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929), phụ thân của Hồ Chí Minh, không phải là con của ông Nguyễn Sinh Nhậm.  Trước khi đám cưới, bà vợ của ông Nguyễn Sinh Nhậm đã có mang với cử nhân (Nho học) Hồ Sĩ Tạo, cho nên ông Nguyễn Sinh Nhậm chỉ là người cha trên giấy tờ của ông Nguyễn Sinh Sắc mà thôi.  Ông Trần Quốc Vượng viết: "Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải là cụ Nguyễn Sinh Nhậm".  Trần Quốc Vượng (1934-2005) là nhà nghiên cứu sử ở trong nước, từ trần tại Hà Nội ngày 8-8-2005.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sau một vài năm ở Mỹ và đã quen hơn với vùng đất mới của họ, những người nhập cư Việt Nam đã chuyển đến các khu vực đô thị lớn để tạo ra các “biệt khu dân tộc” (ethnic enclaves) với những người Mỹ gốc Á khác...
Từ đợt đầu di tản sau biến cố 30/4/1975, chừng 125,000 người. Vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, khi bộ đội miền Bắc tiến vào Sài Gòn, Hoa Kỳ đã ra lệnh sơ tán ngay lập tức nhân viên Hoa Kỳ và hàng nghìn quan chức quân sự và ngoại giao của miền Nam Việt Nam. Các kênh truyền hình tin tức Mỹ đã phát đi những hình ảnh đau lòng về cuộc không vận hỗn loạn, trong đó có đám đông công dân miền Nam Việt Nam tuyệt vọng tràn ngập ngoài cổng Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn. Làn sóng đầu tiên đến vào năm 1975 như một phần của 140.000 người của Đông Dương được sơ tán ban đầu qua lệnh của Tổng thống Gerald Ford. Những người tị nạn đó, hầu hết đều có trình độ học vấn và nói được một ít tiếng Anh, đã nhận được sự chào đón nồng nhiệt từ công chúng Mỹ mong muốn được xóa bỏ ít nhiều mặc cảm tội lỗi về việc quân đội Mỹ đột ngột rời khỏi miền Nam Việt Nam. Đến năm 1978, kinh tế Mỹ bắt đầu suy thoái và sự chào đón nồng nhiệt này không còn nữa (1).
Giữa những hình ảnh cánh đồng hoa anh túc và những chiến hào sũng nước trong ký ức chung về Thế Chiến I, ít ai để ý đến sự hiện diện của các trại tù binh chiến tranh ở vùng đảo British Isles. Nhưng trong suốt cuộc chiến, Anh đã giam giữ gần 116,000 người trong các trại tù binh trên khắp đất nước, từ Cung điện Alexandra ở London đến một trang trại cũ trên Đảo Isle of Man. Trong số đó có một võ sĩ đấm bốc và nghệ sĩ biểu diễn xiếc người Đức tên là Joseph Pilates.
Cựu Trung tướng Phạm Quốc Thuần đã qua đời vào lúc 8 giờ sáng ngày Thứ Sáu 18-8-2023 tại Fountain Valley, California, hưởng thọ 98 tuổi. Ông sinh ngày 31-8-1926 tại Hà Đông. Trung tướng Phạm Quốc Thuần giữ chức vụ Chỉ huy trưởng trường Bộ Binh (Thủ Đức) ngày 20-8-1969...
Bát Nhã Tâm Kinh của Phật học có câu “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Từ “sắc” trong câu kinh dùng để chỉ vật chất và những gì có hình tướng. Còn “không” là cái không bao giờ xẩy ra. Từ “không” được nhắc đến nhiều trong đạo Phật chính là “Chân Không Diệu Hữu”. Như vậy, “sắc tức thị không, không tức thị sắc” là nói đến “thật tướng” của vạn pháp và đấy chính là “vô tướng”, từ “cái không” do nhân duyên hợp lại thành “cái có”. Và, ngược lại, từ “cái có” tất yếu trở về “cái không”. Chu kỳ ấy là bất diệt, cứ tiếp nối nhau đến vô tận. Đó là cách tiếp cận theo triết học tôn giáo hay siêu hình học. Nhìn từ nhãn quan vật lý học, “cái có” có thể đến từ “cái không” được không? Theo thuyết Big Bang thì có vẻ là như thế. Vật chất tồn tại như ta nhìn thấy – hàng tỉ tỉ dải thiên hà, mỗi thiên hà có hàng tỉ tỉ ngôi sao, mỗi ngôi sao là một hệ thái dương có thể có nhiều hành tinh, mỗi hành tinh là một thế giới như quả đất chúng ta đang sinh sống – đến từ “cái không có gì”,
Nhân Lễ Tưởng Niệm Nhị vị Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy và Nguyễn Văn Bông được tổ chức ngày hôm nay 13/08/2023 tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng tiểu bang Victoria-Úc, Ban Tổ Chức có nhờ tôi chia sẻ đề tài “Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy nhà hoạt động chính trị chân chính”, dưới đây là một số điều tôi được biết về cuộc đời chính trị của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy.
✱ Đs Anh/Đs Lodge: Đề xuất của Hồ Chí Minh về một hiệp định đình chiến - Nhu đã đáp lại rằng đề xuất này "không thực tế" nhưng có thể trở thành thực tế trong ba hoặc bốn tháng tới và đang được nghiên cứu. ✱ Báo Espresso, Italia: Ông Nhu sẵn lòng từ bỏ viện trợ Mỹ nếu đó là cái giá phải trả để loại bỏ sự hiện diện của người Mỹ - Nhu cho biết Việt Nam có thể tồn tại mà không cần người Mỹ - Ông Nhu phản ứng phẫn nộ khi người Mỹ muốn ông rời khỏi đất nước. ✱ Nhà báo M.West,Úc: Ông Nhu nói rằng ông muốn tất cả, lặp lại, tất cả các cố vấn Mỹ đều phải rời đi - Không có người Mỹ, chúng ta có thể thắng chiến tranh trong hai hoặc ba năm - Hiện nay trong ngoại giao Mỹ ở Việt Nam, không có đạo đức. ✱ Đại sứ Lodge: Chúng ta nên xem xét việc rút quân là một khả năng ngày càng gia tăng. Sự bắt đầu của việc rút quân có thể gây ra một cuộc đảo chính...
Một nhóm khoa học giả quốc tế đã thấy bằng chứng lâu đời nhất về cà ri bên ngoài Ấn Độ và cho thấy ý nghĩa lịch sử của hành trình mà các thành phần gia vị này đã trải qua để đến đó. Các nhà nghiên cứu từ Úc, Việt Nam và Trung Quốc đã tìm thấy món ăn này – được biết đến với hương vị cay nồng của đất, có nguồn gốc từ Nam Á và hiện đã phổ biến trên toàn cầu – có lẽ đã được đưa đến bàn ăn của người Việt Nam hơn 1800 năm trước nhờ mạng lưới thương mại hàng hải.
Ở Hoa Kỳ, khi ai đó qua đời, thường thì họ sẽ được ướp xác, đặt trong quan tài và chôn cất tại nghĩa trang (thổ táng), hoặc mang đi hỏa táng, phần tro cốt sẽ được trả lại cho gia đình, người thân. Tuy nhiên, thổ táng và hỏa táng nay đã không phải là các lựa chọn duy nhất. Ngày càng có nhiều nhà tang lễ, cả các công ty khởi nghiệp và tổ chức vô vụ lợi, cung cấp cho mọi người những nghi thức khác nhau dành cho người đã khuất. Trong tương lai, bối cảnh nghi thức tang lễ sẽ đa dạng hơn…
Đã mấy năm nay, một nhóm tên "Sinh viên tranh đấu cho được nhập học công bằng" (Students for Fair Admissions) kiện Đại Học Harvard về tình trạng mà họ cho là bất công lúc xét các ứng viên Á châu nộp đơn vào trường đại học ưu tú này của Mỹ. Nhóm này cho rằng Harvard thực hành “affirmative action” (hành động khẳng định) và "racial balancing" (quân bình chủng tộc) trong quá trình quyết định ai được nhận ai bị từ chối. Nếu không, theo họ, nếu chỉ căn cứ trên thành tích học tập (academics) tỷ lệ sinh viên Á châu được nhận sẽ là 43% tổng số, hay ít lắm 26% nếu xét thêm về hoạt động ngoại khóa, thể thao hay gia đình quen biết với trường ("legacy"); chứ không thấp như mức 18.7% như hiện nay.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.