Hôm nay,  

Việt Minh Là Gì?

06/09/200600:00:00(Xem: 11608)

Mặt trận Việt Minh là tổ chức đã cướp chính quyền tại Hà Nội năm 1945, cách đây trên 60 năm.  Nhiều bạn trẻ có lẽ cần biết rõ Việt Minh là gì"

Việt Minh là chữ viết tắt của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội.  Do nhu cầu liên kết những nhà hoạt động cách mạng Việt Nam ở Trung Hoa, Hồ Học Lãm cùng Nguyễn Hải Thần, với sự giúp đỡ của Quốc Dân Đảng Trung Hoa, thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh, tại Nam Kinh, vào tháng 1-1936. Hội xuất bản báo Việt Thanh [Tiếng nói Việt Nam] bằng chữ Hoa, dùng làm cơ quan ngôn luận.(1)  Ngoài Hồ Học Lãm và Nguyễn Hải Thần, các hội viên nòng cốt khác là Nguyễn Thức Canh, Đặng Nguyên Hùng, Hoàng Văn Hoan (bí danh là Lý Quang Hoa, thuộc chi bộ Vân Quý tức Vân Nam Quý Châu của cộng sản) ... 

Năm 1937, Hồ Học Lãm đến hoạt động ở Hồ Nam, và lấy bí danh là Hồ Chí Minh.(1)  Cũng trong năm nầy, chiến tranh giữa Trung Hoa và Nhật Bản bùng nổ, nên những hoạt động của hội mờ lạt dần.  Hồ Học Lãm lại già yếu, di tản theo các đoàn quân Quốc Dân Đảng Trung Hoa chống Nhật, nên Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội tức Việt Minh chỉ còn trên danh xưng, chứ không hoạt động gì nhiều.

Trong khi đó, vào mùa thu năm 1940, tướng Lý Tế Thâm (Quốc Dân Đảng Trung Hoa) giao cho Trương Bội Công ở Quảng Tây tổ chức Việt Nam Giải Phóng Uỷ Viên Hội, với mục đích quy tụ Việt kiều và những người Hoa đã từng sống ở Việt Nam, nhắm thi hành kế hoạch của Tưởng Giới Thạch, tổ chức đưa người về Bắc Việt để chống Nhật và làm giảm bớt áp lực Nhật ở Trung Hoa.  Trương Bội Công mời Nguyễn Hải Thần, Hồ Học Lãm, cùng chiêu mộ một số người Việt tỵ nạn để thành lập lực lượng quân sự.(2a)

Hồ Học Lãm báo cho cho nhóm Hoàng Văn Hoan biết tin nầy.  Theo lệnh của Hồ Quang, nhóm Hoàng Văn Hoan lôi kéo Hồ Học Lãm tách ra khỏi ảnh hưởng của Trương Bội Công, vừa làm mất uy tín họ Trương trước các tướng lãnh Quốc Dân Đảng Trung Hoa, vừa nhắm tính mưu kế chiếm dụng danh xưng hợp pháp của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội của Hồ Học Lãm để hoạt động.  

Hồ Quang chính là Nguyễn Ái Quốc.  Nguyên vào năm 1937, hai phe Quốc Cộng tại Trung Hoa liên kết, cùng nhau chống Nhật.  Nhật Bản đánh chiếm Nam Kinh tháng 11-1937.  Tình hình thuận lợi cho đảng Cộng Sản Trung Hoa họat động công khai trở lại.  Liên Xô quyết định gởi Nguyễn Ái Quốc qua Trung Hoa, có thể vừa làm công tác tình báo, vừa chuẩn bị cho cuộc nổi dậy của cộng sản ở Đông Dương.  Vào đầu năm 1939, Nguyễn Ái Quốc đến Hoa Nam với bí danh mới là Hồ Quang.(2b)  

Nhờ sự giới thiệu của Hồ Học Lãm, vào gần cuối năm 1940, Lâm Bá Kiệt (bí danh của Phạm Văn Đồng) Dương Hoài Nam (bí danh của Võ Nguyên Giáp), Trịnh Đông Hải (bí danh của Vũ Kiện), Phùng Chí Kiên (bí danh của Mạch Văn Liệu), Cao Hồng Lĩnh, Lý Quang Hoa (bí danh Hoàng Văn Hoan), tức là toàn các đảng viên cộng sản, dưới vỏ bọc Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (Việt Minh), đến Quế Lâm gặp Lâm Uất, Phó chủ nhiệm hành dinh tây nam của Tưởng Giới Thạch.  Lâm Uất đưa nhóm nầy đến gặp chủ nhiệm của ông ta là Lý Tế Thâm.(3a) 

Trong cuộc tiếp kiến với Lý Tế Thâm, nhóm nầy trình cho họ Lý một bản tóm lược lai lịch của Việt Minh, và giới thiệu "Biện sự xứ của Việt Minh ở hải ngoại" do Hồ Học Lãm làm chủ nhiệm, Lâm Bá Kiệt (Phạm Văn Đồng) làm phó chủ nhiệm.  Do tin cậy Hồ Học Lãm, cả Lâm Uất lẫn Lý Tế Thâm đều không biết nhóm nầy là những đảng viên Cộng Sản Việt Nam (CSVN), nên đã giúp đỡ họ.  "Qua cuộc nói chuyện với Lý Tế Thâm như vậy, cái danh nghĩa Việt Minh thực tế đã được thừa nhận, và cái danh nghĩa Biện sự xứ Việt Minh cũng mặc nhiên thành ra hợp pháp."(3b)  

Cũng khoảng đầu thu 1940, Hồ Quang (Nguyễn Ái Quốc) cử người đến Diên An, trung tâm chỉ huy của đảng Cộng Sản Trung Hoa (CSTH) để ký mật ước với đảng nầy, theo đó đại diện đảng CSTH tại cục Tình báo Á châu của Đệ tam Quốc tế Cộng sản sẽ lãnh đạo công tác của CSVN.  Cộng Sản Việt Nam sẽ cử cán bộ đến Diên An thụ huấn, và CSTH sẽ trợ cấp cho CSVN 50,000 quan Pháp mỗi tháng để trang trải chi phí sinh hoạt tại Trung Hoa.(4a)  Từ đây, tuy bề ngoài ít liên lạc, nhưng thực chất bên trong, đảng CSTH đã ngầm chỉ đạo và giúp đỡ mọi hoạt động của CSVN.

Vào đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước, đặt căn cứ ở hang Pắc Bó, châu Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng.  Sau khi củng cố nội bộ, huấn luyện đảng viên, phát triển cơ sở, Nguyễn Ái Quốc tổ chức Hội nghị Trung ương đảng CSĐD lần thứ 8 vào tháng 5-1941, đưa Trường Chinh Đặng Xuân Khu (1909-1988) lên làm tổng bí thư đảng CSĐD.

Ngày 19-5-1941, mặt trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh ra mắt công khai tại Cao Bằng.(4b)  Từ đó, những đảng viên cộng sản Việt Nam, nhân viên của Quốc tế Cộng sản Nga Hoa, hoạt động ở Trung Hoa cũng như ở trong nước Việt Nam đều núp dưới danh xưng Việt Minh, đã đánh lừa được nhiều người ngoại quốc cũng như Việt Nam. 

Trước kia, năm 1919, Nguyễn Tất Thành chiếm dụng tên chung của các ông Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền là Nguyễn Ái Quốc, làm tên của riêng mình.  Nay Nguyễn Ái Quốc lấy luôn tên Hồ Chí Minh, bí danh của Hồ Học Lãm, làm tên riêng của mình.  Theo lời tác giả Trần Quốc Vượng, Hồ Chí Minh thích thú với tên nầy vì ông nội đích thực của Hồ Chí Minh (Nguyễn Ái Quốc) là Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải Nguyễn Sinh Nhậm.(5)  Cũng giống như Hồ Chí Minh, đảng CSĐD lấy tên Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh, do Hồ Học Lãm thành lập ở Nam Kinh năm 1936, làm tên mặt trận của đảng CSĐD.  Từ đó, người Việt Nam cứ tưởng rằng Mặt trận Việt Minh do Hồ Chí Minh lập ra.

Hồ Chí Minh và Mặt trận Việt Minh mới, gồm đa số là đảng viên cộng sản, nắm rõ sự biến chuyển của tình hình thế giới nhờ thông tin của Đệ tam Quốc tế cộng sản và cả của OSS (Office of Strategic Services), tổ chức tình báo của Hoa Kỳ, tiền thân của CIA (Central Intelligence Agency), do Việt Minh đã hợp tác với và cung cấp tin tức cho OSS về những hoạt động của quân đội Nhật Bản ở Đông Dương. 

Từ tháng 4-1945, Việt Minh bắt đầu tổ chức Uỷ ban Giải phóng tại các vùng họ hoạt động, thống nhất các lực lượng võ trang thành Việt Nam Giải phóng quân, và thành lập Uỷ ban Dân tộc Giải phóng vào tháng 7-1945.  Vì vậy, ngay khi Nhật đầu hàng ngày 14-8-1945, trong lúc lãnh tụ các đảng phái quốc gia chưa trở tay kịp, vì thiếu thông tin liên lạc quốc tế và thiếu chuẩn bị khởi nghĩa, thì Việt Minh ra lệnh cướp chính quyền ở khắp các tỉnh trong nước. 

Ở Hà Nội, ngày 17-8-1945, Tổng hội công chức tổ chức cuộc mít-tin tại Nhà hát lớn, nhắm ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim.  Việt Minh liền chụp lấy thời cơ, biến thành cuộc biểu tình tuần hành ủng hộ Mặt trận Việt Minh.  Ngày 19-8-1945, Việt Minh tổ chức biểu tình cướp chính quyền Hà Nội.  Lợi dụng hoàn cảnh hỗn loạn, Việt Minh gán cho những nhân vật có khuynh hướng quốc gia là "Việt gian", "phản động" và kiếm cách thủ tiêu họ, để tiêu diệt tất cả các thành phần không cộng sản hoặc đối lập. 

TRẦN GIA PHỤNG

(Toronto, Canada)

1. Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, Nxb. Văn Hóa, Houston, 1997, tr. 168.  Ngoài ra, xin đọc thêm Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, hồi ký, Portland: 1991, tt. 102-105.

2. Chính Đạo, Hồ Chí Minh, con người và huyền thoại, tập II, Houston, Nxb. Văn Hóa, 1993, tr. 246 (2a), 176-178 (2b).

3. Hoàng Văn Hoan, sđd. tr. 134 (3a), 135 (3b).

4. Tưởng Vĩnh Kính, Nhất cá Việt Nam dân tộc chủ nghĩa đích ngụy trang giả, Nxb. Truyện Ký Văn Học, Đài Bắc, 1972, bản dịch của Thượng Huyền, Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, Nxb. Văn Nghệ, California, 1999, tt. 167-168 (4a), tr. 201 (4b).

5. Trần Quốc Vượng, Trong cõi, Nxb. Trăm Hoa, California, 1993, tr. 258. Trong bài "Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia (kinh nghiệm điền dã)" của sách nầy, phần cuối cho biết rằng ông Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929), phụ thân của Hồ Chí Minh, không phải là con của ông Nguyễn Sinh Nhậm.  Trước khi đám cưới, bà vợ của ông Nguyễn Sinh Nhậm đã có mang với cử nhân (Nho học) Hồ Sĩ Tạo, cho nên ông Nguyễn Sinh Nhậm chỉ là người cha trên giấy tờ của ông Nguyễn Sinh Sắc mà thôi.  Ông Trần Quốc Vượng viết: "Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải là cụ Nguyễn Sinh Nhậm".  Trần Quốc Vượng (1934-2005) là nhà nghiên cứu sử ở trong nước, từ trần tại Hà Nội ngày 8-8-2005.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày 3 tháng 4, 2014 là ngày mất của nhà đấu tranh Ngô Văn Toại. Mời đọc lại bài phóng sự SV Ngô Vương Toại bị Việt Cộng bắn tại trường Văn Khoa SG hôm tổ chức đêm nhạc Trịnh Cộng Sơn - Khánh Ly tháng 12, năm 1967, Sài Gòn.
Theo thời gian, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, số lượng Tăng, Ni đến định cư ở Mỹ ngày càng đông, theo diện vượt biển và vượt biên tị nạn Cộng Sản (từ 1975 đến 1989), theo Chương Trình Ra Đi Trật Tự (Orderly Departure Program - ODP) và Chiến Dịch Nhân Đạo (The Humanitarian Operation - HO) (từ 1980 đến 1997), hay theo diện hỗ trợ sinh hoạt tôn giáo được các chùa, các tổ chức Phật Giáo ở Mỹ bảo lãnh kể từ đầu những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3. Các vị Tăng, Ni này định cư ở Mỹ dù thuộc diện nào thì đều mang theo mình sứ mệnh hoằng dương Chánh Pháp của Đức Phật, duy trì và phát huy truyền thống văn hóa của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam tại xứ người. Đây là động lực chính hình thành các cộng đồng Phật Giáo Việt Nam ở Mỹ trải dài nửa thế kỷ qua.
Trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành tâm điểm trong lĩnh vực khoa học căn bản (basic science), góp phần định hình những bước tiến mới của nhân loại. Điều này càng được khẳng định rõ ràng hơn qua các Giải Nobel Hóa học và Vật lý năm 2024 khi cả năm người đoạt giải đều có điểm chung: có liên quan đến AI.
Trong ba chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump liên tục cam kết rằng ông sẽ điều hành chính phủ liên bang như một công ty. Giữ đúng lời hứa, ngay khi tái đắc cử, Trump đã bổ nhiệm tỷ phú công nghệ Elon Musk đứng đầu một cơ quan mới thuộc nhánh hành pháp mang tên Bộ Cải Tổ Chính Phủ (Department of Government Efficiency, DOGE). Sáng kiến của Musk nhanh chóng tạo ra làn sóng cải tổ mạnh mẽ. DOGE đã lột chức, sa thải hoặc cho nghỉ việc hàng chục ngàn nhân viên liên bang, đồng thời tuyên bố đã phát hiện những khoản chi tiêu ngân sách lãng phí hoặc có dấu hiệu gian lận. Nhưng ngay cả khi những tuyên bố của Musk đang được chứng minh sai sự thật, việc tiết kiệm được 65 tỷ MK vẫn chỉ là một con số chiếm chưa đến 1% trong tổng ngân sách 6.75 ngàn tỷ MK mà chính phủ Hoa Kỳ đã chi tiêu trong năm 2024, và là một phần vô cùng nhỏ nhoi nếu so với tổng nợ công 36 ngàn tỷ MK.
Trong bài diễn văn thông điệp liên bang trước Quốc Hội vừa qua, tổng thống Donald Trump tuyên bố nước Mỹ sẽ “will be woke no longer” – khẳng định quan điểm chống lại cái mà ông ta coi là sự thái quá của văn hóa “woke.” Tuyên bố này phản ánh lập trường của phe bảo thủ, những người cho rằng “wokeness” (sự thức tỉnh) là sự lệch lạc khỏi các giá trị truyền thống và nguyên tắc dựa trên năng lực. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần hiểu đúng về bối cảnh lịch sử của thuật ngữ “woke” để không có những sai lầm khi gán cho nó ý nghĩa tiêu cực hoặc suy đồi.
Chỉ với 28 từ, một câu duy nhất trong Tu Chính Án 19 (19th Amendment) đã mở ra kỷ nguyên mới cho phụ nữ Hoa Kỳ. Được thông qua vào năm 1920, tu chính án này đã mang lại quyền bầu cử cho phụ nữ sau hơn một thế kỷ đấu tranh không ngừng. Trong Hiến pháp Hoa Kỳ, Điều I của Tu Chính Án 19 quy định: “Chính phủ liên bang và tiểu bang không được phép từ chối hay ngăn cản quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ vì lý do giới tính.” (Nguyên văn là “The right of citizens of the United States to vote shall not be denied or abridged by the United States or by any State on account of sex.”)
Trong bối cảnh chính quyền Trump đẩy mạnh chiến dịch loại bỏ các chương trình Đa dạng, Bình đẳng và Hòa nhập (DEI), vai trò của phụ nữ trong lịch sử không chỉ là một chủ đề cần được khai thác mà còn là một chiến trường tranh đấu cho công lý và sự công nhận. Bất chấp sự ghi nhận hạn chế và thường xuyên bị lu mờ trong các tài liệu lịch sử, phụ nữ đã và đang đóng góp không thể phủ nhận vào dòng chảy của lịch sử thế giới. Các nhà sử học nữ, dẫu số lượng không nhiều và thường bị đánh giá thấp trong giới học thuật truyền thống, đã không ngừng nỗ lực nghiên cứu và đưa ra ánh sáng những câu chuyện về phụ nữ, từ đó mở rộng khung nhìn lịch sử và khẳng định vai trò của mình trong xã hội. Tháng Lịch sử Phụ nữ diễn ra vào tháng Ba hàng năm, đây không chỉ là dịp để tôn vinh những thành tựu của phụ nữ mà còn là lúc để xem xét và đánh giá những thách thức, cũng như cơ hội mà lịch sử đã và đang mở ra cho nửa thế giới này.
Theo báo điện tử vnexpress.net, từ ngày USAID tái hoạt động tại Việt Nam, Mỹ đã hợp tác với Việt Nam để giải quyết các hậu quả do chiến tranh gây ra, bao gồm việc rà phá bom mìn, xử lý vật liệu nổ, tìm kiếm binh sĩ mất tích và xử lý chất độc da cam/dioxin. Từ năm 2019, USAID đã hợp tác với Bộ Quốc phòng Việt Nam để xử lý khoảng 500.000 mét khối đất nhiễm dioxin tại căn cứ Không quân Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Vào tháng Giêng năm 2024, Hoa Kỳ cam kết bổ sung thêm 130 triệu Mỹ kim, nâng tổng kinh phí cho việc làm sạch dioxin lên 430 triệu. Không rõ bây giờ USAID bị đóng băng, số bổ sung cam kết ấy có còn. Ngoài việc giúp giải quyết các hậu quả chiến tranh, USAID đã đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WHO) và Hiệp định song phương Việt Nam-Hoa Kỳ.
Elizabeth Eckford, một trong chín học sinh da đen tiên phong bước vào trường Trung học Little Rock Central năm 1957, đã trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm trong cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc tại Hoa Kỳ. Kể từ ngày khai trường lịch sử ấy đến nay, cuộc đấu tranh chống kỳ thị chủng tộc ở Hoa Kỳ đã đạt nhiều tiến bộ đáng kể, cho đến gần đây, Donald Trump lên nắm quyền và ra lệnh xóa bỏ toàn bộ chính sách Đa dạng, Công bằng và Hòa nhập (DEI) trên khắp đất nước thúc đẩy sự gia tăng của các hành vi thù ghét trên toàn quốc, câu chuyện của Eckford càng trở nên cấp thiết. Việt Báo đăng lại câu chuyện lịch sử này như lời nhắc nhở quyền bình đẳng không thể bị xem là điều hiển nhiên, và cuộc đấu tranh cho công lý, bình đẳng vào lúc này thực sự cần thiết.
Năm 1979, Steve cho xuất bản Indochina Newsletter là tài liệu liên quan đến các vi phạm nhân quyền tại Việt Nam sau ngày 30/4/1975, sau đổi tên thành Indochina Journal, rồi Vietnam Journal. Tôi và vài người Việt nữa đã cùng làm việc với Steve trong việc phối kiểm tin tức liên quan đến tù nhân lương tâm và dịch nhiều tài liệu của các phong trào đòi tự do dân chủ tại Việt Nam sang tiếng Anh, như Cao trào Nhân bản của Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Diễn đàn Tự do của Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, các bài giảng về sám hối vào Mùa chay 1990 của linh mục Chân Tín, cũng như những tuyên cáo về tình trạng thiếu tự do tôn giáo của các Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thượng tọa Thích Trí Siêu Lê Mạnh Thát; của Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, Linh mục Nguyễn Văn Lý.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.