Hôm nay,  

Chiêu Quân

21/02/200700:00:00(Xem: 5035)

Không thấy một gạch nối nào giữa hình ảnh người đẹp Chiêu Quân của Hán-quốc phải gạt lệ sang Hồ, với thời điểm giao mùa năm mới tiễn năm cũ. Vậy mà tôi cứ bâng khuâng, phảng phất đâu đây tiếng nức nở của giai nhân:

“Tuyết lạnh che mờ trời Hán-quốc

Tỳ-bà lanh lảnh buốt cung thương

Tang tình năm ngón, sầu dâng lệ

Chiêu Quân sang Hồ, xừ hồ sang” (*)

Có lẽ không gì ảo não cho bằng khi phải xa rời quê hương bất đắc dĩ. Huống chi, một vương phi được quân vương sùng ái mà chỉ vì quá đẹp nên đã phải biến thành quà tặng cho kẻ thắng trận. Có ai phải xa quê, trên đường biên giới, nhìn về đất mẹ mới cảm thông phần nào nỗi lòng Chiêu Quân:

“Đây Nhạn-Môn-Quan đường ải vắng

Trường Thành xa lắm, Hán Vương ơi!

Chiêu Quân che khép mền chiên bạch

Gió bấc trời Phiên thấm lạnh rồi 

Ngó lại xanh xanh triều Hán-Đế

Từng hàng châu lệ thấm chiên nhung

Quân Vương chắc cũng say và khóc

Ái Khanh! Ái Khanh! Lời nghẹn ngùng” (*)

Lòng người đi sầu muộn như thế. Còn kẻ ở thì sao" Chia lìa nào mà không đứt đoạn:

“Hồ xang, hồ xang, xừ hồ xang

Chiêu Quân nàng ơi, lệ dâng hàng

Lã chã trời Phiên mưa tuyết xuống

Chiêu Quân sang Hồ, xừ hồ xang” (*)

Người yêu thơ biết đến Quang Dũng ở những bài bất tử như Đôi mắt Người Sơn Tây, Đôi Bờ, Tây Tiến … nhưng bài Chiêu Quân, tương đối ít người thuộc hơn. Tôi cũng ở trong số này. Nhưng đêm nay, trong chuyển tiếp lặng thầm của trời đất, lòng tôi bỗng quặn lên hình ảnh một người phải gạt lệ xa quê. Biết bao người đã tức tưởi xa quê, sao phút giây này tôi lại chỉ mơ hồ thấy bóng dáng Chiêu Quân, một nhân vật, đối với tôi vẫn chỉ là huyền thoại"

Người thi sỹ như con tằm, khi nhả tơ là nhả chính nỗi lòng mình. Quang Dũng gửi gấm gì qua tiếng khóc Chiêu Quân, tôi không rõ, nhưng tiếng khóc đó đang chiêu cảm lòng người xa quê giữa giờ phút giao mùa, là tôi.

Quê nội tôi, làng Phương Viên, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Đông mà tôi tình cờ biết đó cũng chính là nơi Quang Dũng chào đời. Thi sỹ sinh năm 1921 tại làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng, nghĩa là cùng huyện, chỉ khác làng thôi, mà làng quê Việt Nam thì nhỏ bé, nhiều khi chỉ cách nhau một lạch sông, một bờ đê hay dăm bụi tre ngăn con đường đất đỏ. Phương Viên và Phượng Trì là hai, trong số tám làng nhỏ mà địa danh được gọi chung là Tổng Phùng.

Khi khám phá ra điều này tôi mới thấp thoáng nhớ về những ngày thơ ấu. Mỗi mùa hè nghỉ học, được về quê chơi, tôi thường đong đưa nằm trên chiếc võng mắc ở nhà ngang, nhìn qua khung cửa thấy rặng núi xanh rì. Ngờ đâu, đó chính là rặng núi Ba Vì đã gợi niềm xúc cảm để Quang Dũng viết nên bài thơ nổi tiếng Đôi Mắt Người Sơn Tây, mở đầu với những câu:

“Em ở thành Sơn chạy giặc về

Tôi từ chinh chiến cũng ra đi

Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt

Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì” (+)

Bài thơ này được cố nhạc sỹ tài danh Phạm Đình Chương phổ nhạc và tự hát. Thơ và nhạc đã cất cánh bay suốt ba miền đất nước từ nhiều thập niên qua. Dù người biết nhạc hay không, khi thưởng lãm Phạm Đình Chương chậm rãi nâng ly rượu sóng sánh, nhấp một ngụm, rồi với tay, lấy cây đàn tây ban cầm, dạo nhẹ dăm cung bậc và hào sảng cất tiếng:

“Đôi mắt người Sơn Tây

U uẩn chiều luân lạc

Buồn viễn xứ khôn khuây” (+)

Thì tâm hồn người nghe không thể nào không xao xuyến, huống chi, quê  người nghe lại ở ngay miền đất thơ mộng đó!

Viết tới đây tôi mới mơ hồ thấy cái gạch nối giữa tấm lòng Chiêu Quân và thời khắc giao mùa.

Thì ra, chẳng phải Chiêu Quân khiến tôi bâng khuâng, mà là tác giả bài thơ Chiêu Quân, người gửi gấm tâm sự qua nỗi lòng kẻ sang Hồ. Tác giả bài thơ - người biết rõ quê nội tôi như chính tôi - là người đang khơi dậy hồn quê chan chứa trong tôi. Hồn đất linh thiêng nơi bờ đê, đường làng, cầu ao, bụi cỏ, thẳm sâu đâu đó, dấu chân người, chân tôi, thế nào chẳng có lúc gần kề. Thế nên chiều nay, tiếng nấc Chiêu Quân không chỉ là tiếng gọi hồn Quang Dũng mà còn đưa tôi về quê cũ, nơi ông bà, cha mẹ đã nằm xuống. Quang Dũng gọi, hay chính tôi đang gọi mình:

“Em ơi! Em ơi! Đêm dần vơi,

Vọng về phương ấy ngóng trông người

Trăng có soi qua đầu tóc bạc

Nẻo chừng cố quận, nhớ thương ơi!” (#)

Vâng, nhớ quá và thương quá, quê ơi! Tôi vẫn biết ngày nay, bờ đê đó, đường làng xưa đã đổi khác nhưng hồn quê, hồn đất, ngàn năm thấm xương máu Cha, Ông, đã thành linh địa trong anh, trong tôi thì không gì đổi thay được:

“Khói thuốc xanh dòng, khơi lối xưa

Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ

Thoáng hiện em về trong đáy cốc

Nói cười như chuyện một đêm mưa” (=)

Kim đồng hồ vừa nhích khỏi con số 12.

Bính Tuất đã qua.

Đinh Hợi vừa tới.

Tôi thắp ba nén nhang, bước ra sân, vọng về quê hương.

Cắm nhang bên gốc ngọc-lan, tôi ngước nhìn trời đêm, nhớ về Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ, nhớ về bao người đã vun bồi Quê Hương, đã đến rồi đi như giòng sông, chỉ cho mà không chờ nhận.

Trong bóng đêm, tôi lặng lẽ sụp lạy đủ chuỗi hạt 108. Mỗi hạt là một  lạy.

Nền đất lạnh buốt gối quỳ không làm tôi run rẩy lời thành khẩn cầu xin an lạc tới khắp nơi khổ hạnh.

Diệu Trân

(Giao thừa Tết Đinh Hợi)

Thơ Quang Dũng:

(*) Chiêu Quân

(+) Đôi mắt người Sơn Tây

(#) Cố quận

(=) Đôi bờ

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Vào tháng Năm vừa qua, một người đàn ông Ấn Độ đã thiệt mạng khi cố gắng chụp ảnh “tự sướng” bên cạnh một con gấu bị thương. Đây là cái chết thứ ba liên quan đến việc chụp ảnh tự sướng ở Ấn Độ kể từ tháng 12 năm ngoái. Trong hai tai nạn khác, những con voi đã đạp chết hai người trong lúc họ đang cố gắng tự chụp với chúng trong hai lần “tự sướng” riêng biệt. Vào tháng 7 năm nay, Gavin Zimmerman, một người Mỹ du lịch đến Úc, 19 tuổi, đã mất mạng vì rơi xuống vực khi anh đang tự chụp ảnh tự trên một vách đá ở New South Wales.
Chữ có hình có dạng, nhưng ý nghĩa bên trong chữ như chất lỏng. Sáng tác không chỉ đặt chữ xuống trang giấy, lên màn ảnh, trong tâm tình và ý thức nghệ thuật, mà quan trọng hơn, là làm rách chữ để chất lỏng chảy ra, thấm sâu vào giấy, vào điện tử, bốc hương lên tác giả và truyền thơm cho độc giả.Ca từ có thể không chứa chất lỏng đặc sệt như chữ trong thi ca, hoặc đậm đen trong ngôn từ triết học, nhưng chất lỏng trong ca từ rất đặc thù: có thể hát, mỹ vị hóa tứ nhạc, đồng cảm với giai điệu, và có khả năng đặc biệt nhất: đi thẳng vào lòng người. Sự phức tạp này là trở ngại lớn nhất đối với người viết ca khúc, vì nói đến ca khúc là nói đến ca từ. Một bản nhạc không thể hay, không thể đạt được giá trị, nếu có ca từ dở.
Mới đây, ở Việt Nam, mẫu giày Biti’s Hunter bloomin’ central tạo nên nhiều dư luận xoay quanh việc sử dụng vải thổ cẩm của người Chăm. Sau khi được nhiều cá nhân và tổ chức góp ý, Biti’s đã có lời xin lỗi tới công chúng và điều chỉnh nội dung truyền thông cho sản phẩm (1). Cũng gần đây, hai người mẫu Việt Nam xuất hiện trên hình ảnh với màu da nâu đậm và bị một số người đặt câu hỏi không biết có phải là “chiếm dụng văn hóa” của người Da Đen hay không (2). Từ ngữ “chiếm dụng văn hoá” hay “chiếm đoạt văn hóa” được dùng để dịch từ tiếng Anh “cultural appropriation” có vẻ đang được dùng càng ngày càng nhiều trên báo chí tại Việt Nam, và đối với tác giả bài này, đây là một điểm gây ngạc nhiên.
Trong suốt gần 4000 năm lịch sử của nước ta, bên cạnh ngày lễ Tết Nguyên Đán còn có ngày lễ hội Trung Thu dành cho các trẻ em. Lễ hội Trung Thu được cử hành hằng năm vào ngày rằm tháng Tám âm lịch. Vào ngày này, trẻ em thường nhận được quà tặng từ cha mẹ, ông bà để cử hành lễ hội Trung Thu. Phần nhiều quà tặng các em thích nhất là những lồng đèn có hình ngôi sao, cá chép, con gà trống, con thiên nga, con bướm... hay lớn hơn có hình con rồng dài, cái đầu con lân...
“Mảnh Da Vàng viết ra rồi đốt bỏ, viết đi viết lại không biết bao nhiêu lần. Viết lén lút trong trại giam Sông Măng sát biên giới Miên. Viết trong nỗi kinh hoàng ở trại tập trung Hóc Môn. Viết sau cơn sốt cuồng điên trên đồi gió hú trại tập trung Long Giao. Viết nắn nót trên những trang giấy rẻ tiền trong căn nhà tranh vách đất vùng kinh tế mới. Viết trên giường bệnh viện Bình Dương tồi tàn. Viết trong nỗi cô đơn ròng rã dưới ngọn đèn dầu le lói nơi miền quê nghèo...” (MDV, tr. 9)...
Chuyện tình Huyền Trân Công Chúa đã được nhắc tới nhiều trong dân gian Việt Nam, dưới nhiều góc độ khác nhau. Người thì ca ngợi Công Chúa đã thay mặt triều đình nhà Trần, thực hiện công tác chính trị, ngoại giao, tạo hoà bình giữa hai nước, đã thường xuyên tranh chấp lâu đời với nhau...
Vào khoảng 2 tuần lễ trước đây, ngày 30-08 dương lịch, nhằm 14 hay 15 âm lịch; ngày Vu Lan tháng 7 ta, ngày báo ân phụ mẫu, cũng là mùa xá tội vong nhân, đồng thời mùa an cư cát hạ vừa hoàn mãn, chúng tôi được đọc bài chúc thư khánh tuế của hoà thượng Thích Tuệ Sỹ đăng trên Việt Báo...
Dân ca nước ta, trong đó có môn hát chèo, được coi là rất hay và thâm thúy lắm. Để hiểu biết và thưởng thức được những nghệ thuật trình diễn và các làn điệu dân ca, chúng ta cũng phải mất nhiều công sức để tìm tòi, học hỏi...
– Nếu biển rộng như thế nào thì nỗi khổ của con người bao la như thế. – Nếu lá trên rừng nhiều như thế nào thì nỗi lo, nỗi sầu, nỗi buồn của con người nhiều như thế. – Nếu vũ trụ vô biên như thế nào thì lòng tham của con người vô bờ bến như thế...
Tầm quan trọng của diaspora hay cộng đồng người gốc Việt sống ngoài Việt Nam càng ngày càng gia tăng. Để có một cái nhìn tổng quát, có tính cách học thuật và khách quan hơn về tình hình chung của diaspora Việt cũng như các diaspora khác trên thế giới, tôi xin giới thiệu và dịch bài viết năm 2005 của Steven Vertovec, một giáo sư đại học Đức chuyên về Xã hội học và Dân tộc học. Sau đây là phần 2, tiếp theo phần 1 (kỳ trước) bàn về các ý niệm và định nghĩa của diaspora. Các điểm liên quan tới Việt Nam sẽ được người dịch ghi chú, bàn luận thêm trong phần chú thích ở cuối bài.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.