Hôm nay,  

Song ngữ: Vô Cảm Xã Hội Và Thái Độ Của Người Phật Tử / Social Insensitivity and Buddhist Attitudes

15/06/202321:57:00(Xem: 3078)
blank

   

Song ngữ: Vô Cảm Xã Hội Và Thái Độ Của Người Phật Tử / Social Insensitivity and Buddhist Attitudes

 

Chúc Phú

 

Đừng e ngại việc nhỏ hay việc to. Nhặt một cây đinh có khả năng phá hỏng ruột xe trên quốc lộ, gọi một cú điện thoại khi thấy ai đó cần cấp cứu trên đường, ra tay chở che và hỗ trợ trong những tình huống phù hợp ở đời thường… là những việc cần làm, thể hiện cho hạnh tu thiết thực của một người cư sĩ trong thời đại hôm nay...

 

Nhìn dáng mặt khắc khổ và ánh mắt khẩn cầu xin lại bằng lái xe của chàng thanh niên bị kẻ gian móc túi trên xe buýt [i], mà báo chí đã liên tục thông tin trong những ngày gần đây, trong tôi chợt dâng lên một cảm xúc uất nghẹn và thương cảm đến nao lòng. Lần ngược lại những thông tin cũ từ các báo trong nước, chuyện hiệp sĩ Minh Tiến ham bắt cướp nên bị mất trộm xe; chuyện những đứa trẻ đánh nhau và người lớn chỉ đứng nhìn, chuyện những người hôi của từ những tai nạn giao thông thương tâm…đã cho thấy một sự dững dưng, không động lòng, mà ngôn ngữ ngày nay gọi là thái độ vô cảm xã hội, đã và đang hiện diện trong dòng sống sinh động của xã hội hôm nay. Trong khuôn khổ của một người học Phật, chúng tôi muốn sẽ chia thêm về thái độ cũng như cách hành xử cần có của người Phật tử nói chung, trước những hiện tượng này.

 

Sống là sống với

 

Cần phải thấy rằng, sống là sống với, không thể ở đâu bạn có thể sống một mình. Với cái nhìn liên hệ duyên sinh, sự hiện hữu của mỗi con người, của mỗi sự vật, hiện tượng … có quan hệ và liên hệ thâm thiết đến nhau. Do cái này có mặt, cái kia hiện hữu. Do cái này sanh, cái kia sanh[ii]. Chân lý liên hệ duyên sinh này đã được văn học Phật giáo hiện đại khái quát hóa theo kiểu văn chương như: một con muỗi đập cánh ở rừng rậm Amazon thì ở Philippine có gió mùa. Bằng cái nhìn tương tức và liên hệ đó, trong một không gian xã hội thu nhỏ, có thể thấy rõ sự khổ đau hay bất hạnh của ai đó, có sự liên đới trách nhiệm đến thái độ sống cũng như hành vi của mỗi người, trong đó có bản thân ta. Do vậy, đừng bàng quan giương mắt làm ngơ trước cái xấu, cái ác đang diễn ra trong xã hội, vì tưởng rằng chuyện đó không liên quan đến bản thân mình. Cần phải hiểu rằng, cũng do tư duy của mình, do thái độ sống của mình, do cách hàng xử ích kỷ của mình… mà cái xấu, cái ác đó có cơ sở để nảy sinh.

 

Không chỉ trên phương diện liên hệ duyên sanh, trong mối liên hệ, tác động giữa nghiệp chung (cộng nghiệp) của nhiều người và nghiệp riêng (biệt nghiệp) của từng người, đã góp phần tạo ra những nỗi bất hạnh hoặc cái xấu, cái ác. Vì lẽ, do nhân như vậy, duyên như vậy nên ta đã gặp nhau trên cõi đời này, trong cuộc sống này, tại không gian này, với bối cảnh xã hội như vậy. Không thể đơn phương trách đời, trách người, trách nhà chức trách theo dạng thức Chí Phèo thời nay. Ở đây, cần phải thấy rằng, tập tính sinh hoạt, không gian và bối cảnh xã hội có sự liên hệ sâu xa đến phước báo cũng như dẫn nghiệp, hành động của mỗi con người. Ngành khoa học nghiên cứu về tâm lý tội phạm cho thấy, có sự ảnh hưởng và liên hệ sâu xa về dấu ấn tuổi thơ, không gian gia đình, bối cảnh giáo dục, môi trường sống…có tác động rất lớn đến hành vi phạm tội của một cá nhân. Thấy rõ mối liên hệ và bối cảnh sống cụ thể, để chúng ta nỗ lực để hoàn thiện mình, góp phần hoàn thiện xã hội và đặc biệt trước mắt, là luôn giữ tâm rung cảm, trước những khổ đau cụ thể của mỗi con người.

 

Sự rung cảm trước khổ đau.

 

Lòng thương được xem là thuộc tính cơ bản của con người. Ở đâu có con người, nơi ấy có tình thương. Làm người đúng nghĩa, yêu cầu bắt buộc là phải có tình yêu thương đồng loại. Không có tình yêu thương đồng loại và không rung cảm trước nỗi khổ đau của tha nhân, thì chưa phải là một con người đúng chuẩn và đúng nghĩa.

 

Đạo Phật là tôn giáo tiêu biểu cho tình thương. Là một người Phật tử, lẽ tất nhiên tình thương dành cho con người bao giờ cũng lớn hơn người bình thường. Vì lẽ, tình thương của một người phật tử đúng nghĩa không chỉ dừng lại ở tình thương đồng loại, mà còn mở rộng thương cả vạn loại sinh linh. Trước những bất hạnh, khổ đau của tha nhân, cũng như khi đối diện với cái xấu, cái ác đã và đang len lõi xuất hiện trong hiện thực sống này, người con Phật cần phải giữ tâm rung cảm như là chuyện của chính bản thân mình. Mắt thương nhìn cuộc đời là hạnh nguyện của mười phương chư Phật mà tiêu biểu là hạnh nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm. Hạnh nguyện đó, đã là người phật tử thì phải nỗ lực noi theo và thực hiện.

 

Trước mắt, phải giữ tâm rung cảm, không xơ cứng, chai lỳ trước nỗi khổ đau của đồng loại, tha nhân. Dẫu biết rằng, chỉ giữ được tâm rung cảm như thế thôi cũng đã là một điều rất khó, trong dòng chảy phức tạp của đời sống này. Bởi lẽ, một khi năng lực bảo hộ và quản lý của nhà chức trách vẫn tồn tại những giới hạn, một khi tham dục lên ngôi và thói quen thụ hưởng tăng dần, một khi cái xấu, cái ác luôn đoanh vây và xuất hiện hằng ngày, một khi sự mưu mô, lừa lọc hiện diện khắp nẽo và niềm tin giữa con người và con người đang tụt hạng ngay cả trong những mối liên hệ, quan hệ với người thân…thì thái độ vô cảm sẽ lặng lẽ, âm thầm xuất hiện và tạo nên những hệ lụy kéo theo trong cuộc sống này.

 

Ở đây, theo quan điểm xuyên suốt của Phật giáo, không rung cảm trước nỗi khổ đau của đồng loại, tha nhân thì chưa phải là người phật tử đúng nghĩa. Vì lẽ, không rung cảm trước đau khổ của con người, đó chính là tội ác. Do đó, với cái nhìn tích cực và chủ động, người phật tử phải xem việc giữ con tim rung cảm trước nỗi khổ đau và bất hạnh của con người là một hạnh tu. Một khi hạnh tu này thuần thục, khi nhân duyên chín muồi và hoàn cảnh sống đủ điều kiện, người phật tử dễ dàng biến lý tưởng sống cao đẹp của hạnh tu trở thành hành động hiện thực, góp phần giải quyết từng nổi khổ đau cụ thể trong đời.

 

Phụng sự và dấn thân, hạnh tu ở mọi thời đại.

 

Với Phật giáo, phụng sự tha nhân được xem là hạnh tu của mọi thời đại. Ngay bản thân Đức Phật là cả một bài học sáng ngời về hạnh phụng sự, dấn thân. Đọc lại trang sử Phật hào hùng qua các thời đại, có thể thấy rõ hạnh nguyện cứu người, giúp đời của các thế hệ tiền nhân trong Phật giáo luôn được hậu thế ngưỡng vọng và tôn xưng.

 

Trong tư duy tục đế, lẽ tất nhiên, chúng ta còn rất lâu mới thành Phật và con đường cao tột đó, ta chưa thể bước vào chặng cuối của hành trình. Mặc dù vậy, đã là con Phật, ít nhiều chúng ta cũng hội tụ những tố chất như Phật, và một trong những tố chất đó, chính là tinh thần tự nguyện phụng sự và nỗ lực, dấn thân. Ở đây, điều cần phải minh định trước tiên là sự phụng sự và dấn thân trên cơ sở hoàn cảnh sống và nghiệp lực của riêng mỗi con người.

 

Tùy theo điều kiện của mình mà ta có thể lựa chọn một sự phụng sự, dấn thân thích hợp. Thái độ đó cần phải hành xử như việc cứu người đuối nước. Phải ý thức rằng năng lực của mình ra sao và sức nặng của kẻ kia thế nào để cả hai không bị chìm xuống nước. Nói rõ hơn, phụng sự tha nhân phải có sự quán sát của trí tuệ. Bởi lẽ, với hoàn cảnh sống của một người phật tử bình thường, có những rũi ro và hạn chế nhất định, trong sự dấn thân và phụng sự tha nhân.

 

Tư duy rõ ràng về điều này để có thể lựa chọn cho mình một phương cách sống dấn thân và phụng sự phù hợp. Đừng e ngại việc nhỏ hay việc to. Nhặt một cây đinh có khả năng phá hỏng ruột xe trên quốc lộ, gọi một cú điện thoại khi thấy ai đó cần cấp cứu trên đường, ra tay chở che và hỗ trợ trong những tình huống phù hợp ở đời thường…là những việc cần làm, thể hiện cho hạnh tu thiết thực của một người cư sĩ trong thời đại hôm nay. Hơn đâu hết, đã là một cư sĩ trong đời, phải sống làm sao để sự hiện hữu của mình ngoài ý nghĩa với người thân, vợ con, còn phải có ý nghĩa với những hoàn cảnh thương tâm khác.

 

Với một đất nước có trên 45 triệu người theo đạo Phật như đất nước Việt nam [iii], nếu như mỗi người cư sĩ phật tử đều ý thức và rung cảm trước khổ đau của đồng loại, tha nhân và nỗ lực dấn thân, phụng sự, thì đó là một tín hiệu đáng mừng cho đạo đức xã hội hôm nay. Trong khuôn khổ những nỗ lực trước mắt, người cư sĩ phải sống làm sao đừng bao giờ để xảy ra tình trạng, ngày đến chùa tụng kinh đều đặn, nhưng khi gặp chuyện bất hạnh của người thì ngoãnh mặt, quay lưng. Kinh Phật, ta có thể bắt gặp ở thực tế đời thường và bản kinh đó có ý nghĩa không những cho bạn, cho tôi và cho tất cả những ai đang cầu mong vơi khổ.

 

Chúc Phú

Thư Viện Hoa Sen

[i] Xem clip trên youtube tại đây: http://www.youtube.com/watch?v=JDO8MhAifig

 

[ii] Kinh Tiểu Bộ, kinh Phật tự thuyết, chương 1, phẩm Bồ đề.

 

[iii] Theo, Hòa thượng Thích Thiện Nhơn, Báo cáo của Ban thường trực Hội đồng trự sự trung ương giáo hội Phật giáo Việt nam, mục Hướng dẫn Phật tử, năm 2007.

 

Nguồn:

https://thuvienhoasen.org/a13419/vo-cam-xa-hoi-va-thai-do-cua-nguoi-phat-tu

 

 

 

…. o ….

 

Social Insensitivity and Buddhist Attitudes

 

Author: Chúc Phú

 

Translated by Nguyên Giác

 

 

Whether it's a small thing or a big one, don't be afraid. Picking up a nail that could damage the tires, making a phone call when seeing someone in need of an emergency on the road, and offering protection and support in appropriate situations in everyday life... are all things that must be done to demonstrate a layperson's practical conduct in today's era...

   

When I saw the austere face and eyes appealing for a driver's license of the young man who was snatched up by robbers on the bus, as the press has often reported in recent days, I was overcome with choking emotion and compassionate affection. Going back to old information from domestic newspapers, the story of the Minh Tiến knight who wanted to catch robbers so his car was stolen, the story of children fighting and adults just watching, the story of people looting from traffic accidents... has shown an indifference, which today's language calls an attitude of social insensitivity, which has been and is present in today's lively lifestream. Within the framework of a Buddhist practitioner, we would like to share more about the attitudes and behaviors required of Buddhists in general, before these phenomena.

 

To live means to live with.

  

It must be understood that to live is to live with, for no one can live alone. With a view of the relationship of dependent origination, the existence of any person, object, phenomenon, etc. is closely related to many others. Since this one exists, the other comes up. Because this one arises, the other appears. In the same way that a mosquito fluttering its wings in the Amazon jungle causes a rainstorm in the Philippines, modern Buddhist literature has globalized this fact of interconnectedness. In a miniature social space, with that look of engagement and connection, it is easy to clearly perceive someone's suffering or misery, with the responsibility associated to each person's attitude toward life and behavior, including ourselves. As a result, do not turn a deafening blind eye to the evil that is occurring in society because you believe it has nothing to do with you. It must be understood that the evil and the wicked have a basis to rise up, also thanks to our way of thinking, our outlook on life, and our selfish behavior.

  

Not only in terms of the dependent origination link, but also in the interaction, the impact of many people's common karma (combined karma) and each person's unique karma (separate karma) has led to unfortunateness, ugliness, and wickedness. We have met in this world, in this life, in this space, and in this social setting because of such causes and conditions. We cannot single-handedly blame life, the people, or the authorities in the form of Mr. Chí Phèo today. Here, we must recognize that living habits, space, and social context are all inextricably linked to merit, as well as each person's karma and activities.

  

Scientific research on criminal psychology demonstrates that there is a profound influence and connection intermixing with childhood imprinting, family space, educational context, living environment, and so on, which have a significant impact on an individual's illegal misconduct. The goal of seeing the relationship and the specific life context clearly is for us to make efforts to develop ourselves, contribute to the progress of society, and, especially, always keep our hearts moving in the face of the specific sufferings of every human being.

  

 

 

Emotions in the face of suffering

 

Love is considered a basic human attribute. Where there are people, there is love. To be a true human being, love for other human beings is a mandatory requirement. One is not yet a standard and authentic human being if he does not love his fellow man and is not moved by the sufferings of others.

  

Buddhism is a religion that embodies love. Of course, a Buddhist's love for people is always higher than that of regular people. As a result, a Buddhist's true love includes not only the love of other people but also the love of all living things. In the face of other people's misfortunes and afflictions, as well as observing evil seeping into this live reality, a Buddha's child must keep his heart moving as if it were his own. Contemplating life with love is the vow of the Buddhas of the ten directions, represented by the vow of the Bodhisattva Avalokitesvara. Every Buddhist must endeavor to follow and put that loving promise into action.

  

First and foremost, Buddhists must maintain a heartbeat that is not rigid or indifferent to the suffering of others. Even understanding that maintaining a vibrating heart is a challenging task in the intricate flow of our existence. Because, as long as the authorities' capacity for protection and management remains limited, when greed takes the throne and the habit of enjoyment grows, when evil surrounds and appears every day, when intrigues and deceptions appear everywhere, and trust between people falls even in relationships with relatives... the insensitive attitude will silently appear and create bad consequences in this life.

  

Here, the central point of Buddhism states that a true Buddhist is one who is moved by other people's suffering. It is a crime not to be moved by human misery. As a result, Buddhists must see keeping their hearts moving in the face of human suffering and sadness as a practice, with a constructive and proactive attitude. Once this practice is mature, when the predestined conditions are ripe and the living situations are adequate, Buddhists can easily translate the noble ideal of a spiritual practice into concrete acts, contributing to the resolution of all suffering, specifically in life.

  

Serving and engaging: a spiritual practice at all times.

  

With Buddhism, serving others is considered the practice of all times. Even the Buddha himself is a shining lesson in serving and engaging actions. Reading through the heroic Buddhist history, it is apparent that the pledges to save people and help societies of the forefathers in Buddhism have always been revered and respected by posterity.

  

Naturally, in secular thought, we are still a long way from becoming Buddha, and on that lofty path, we have not yet reached the final stage of the journey. However, as Buddha's children, we are learning to have some of Buddha's qualities, one of which is the spirit of voluntary serving and engagement. What needs to be clarified first is serving and engaging based on each person's own life condition and karma.

   

We can select an appropriate form of engaging and serving work based on our individual circumstances. That attitude ought to act like rescuing someone from a river. Be aware of your own strength as well as the weight of the other to avoid sinking into the water. To be more specific, serving others requires wise observation. Because, with the living situation of an ordinary Buddhist, there are certain risks and limitations in serving and engaging others.

  

Think clearly about this so that you can choose for yourself a suitable way of life of serving and engaging. Whether it's a small thing or a big one, don't be afraid. Picking up a nail that could damage the tires, making a phone call when seeing someone in need of an emergency on the road, and offering protection and support in appropriate situations in everyday life... are all things that must be done to demonstrate a layperson's practical conduct in today's era... Above all, as a lay person, a Buddhist must live in a way that is meaningful to one's spouse, children, and relatives, as well as to others in need.

  

In a country with over 45 million Buddhists, such as Vietnam, if every Buddhist lay follower is aware of and moved by the sufferings of their fellow human beings, and makes every effort to participate and assist, that would be a positive indicator for today's social morals. Within the context of the immediate efforts, lay people should live in such a way that they never allow the following situation to occur: going to the temple every day to chant sutras and turning their backs on people's tragedies. We can meet Buddhist scriptures in real life and those sutras have significance not only for you, for me, and for all those who are practicing for some relief from suffering.

 

(All the notes were removed for the audio version.)

 

.... o ....

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hàng triệu người Mỹ đã nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp vào tuần trước, cho thấy việc sa thải đang lan sang nhiều ngành nghề ban đầu không bị ảnh hưởng trực tiếp bởi việc đóng cửa và gián đoạn kinh doanh liên quan đến vi khuẩn corona. Phúc trình đơn khai thất nghiệp hàng tuần của Bộ Lao Động Hoa Kỳ hôm Thứ Năm, 30 tháng 4 theo sau các tin hôm Thứ Tư nói rằng kinh tế trong quý đầu đã bị thiệt hại nặng nề kể từ thời kỳ Đại Suy Thoái.
Hôm Thứ Năm, 30 tháng 4, Tổng Thống Trump nói rằng ông đã thấy bằng chứng để chứng minh rằng đại dịch vi khuẩn corona truyền nhiễm từ một phỏng thí nghiệm tại Vũ Hán, Trung Quốc, nhưng ông đã không đưa ra chi tiết cái gì là bằng chứng. “Tôi không được phép nói với bạn điều đó,” theo ông cho biết tại cuộc họp báo ở Bạch Ốc nơi mà ông đã nhiều lần cáo buộc chính quyền TQ về việc làm ngơ trong trách nhiệm của họ đối với vi khuẩn, trong khi bỏ ngỏ khả năng nó lây lan một cách cố ý.
Newsom nói rằng các bãi biển tại miền nam California, gồm các bãi biển tại Quận Cam, Los Angeles và San Diego, đã reo chuông báo động, gồm các hình ảnh người tụ tập ở đó và không tuân theo các hướng dẫn giữ khoảng cách xã hội. Ông cho biết tiểu bang muốn làm việc sát cánh với các viên chức địa phương, và nếu họ có thể đưa ra các hướng dẫn tốt hơn, thì các bãi biển có thể “tái mở cửa rất rất nhanh.”
Nhân dịp kỷ niệm 45 năm ngày 30 tháng 4 năm 1975, kết thúc chiến tranh Việt Nam và bắt đầu cuộc di cư tị nạn Việt Nam, tôi muốn chia sẻ một vài lời về sự kiên cường của chúng ta là người Mỹ gốc Việt, là người tị nạn và con cháu của người tị nạn. Cảm giác thế nào khi nền tảng của thế giới chúng ta đang sống bị rung chuyển đến mức chúng ta không còn biết mình đang đứng ở đâu hay làm thế nào để tiến về phía trước? Trước năm 2020, trước đại dịch COVID-19, chỉ những người đã chịu những bi kịch lớn mới có thể trả lời câu hỏi này. Bây giờ tất cả chúng ta đang sống với nó.
Hơn một chục người biểu tình, một số trong đó có vũ khí, đã tụ tập hôm Thứ Năm, 30 tháng 4 bên trong tòa nhà Quốc Hội của Michigan để lên tiếng phản đối lệnh cho người dân phải ở trong nhà của Thống Đốc Gretchen Whitmer, với căng thẳng lên cao khi các nhà lập pháp sẵn sàng tranh luận về sự gia hạn của tuyên bố này.
nhiều phó phẩm, nào là tuồng hát bội Kiều, tuồng chèo Kiều, thơ Vịnh Kiều, thơ Xử Án Kiều, Kim Vân Kiều Ca, Kim Vân Kiều Diễn Ca, Túy Kiều Phú… và hàng trăm bài thơ lẫy Kiều nhiều cách ngắn dài, kể cả có người viết lại toàn thể truyện Kiều
Tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ, thành phố Westminster, miền Nam California vào lúc 9 giờ sáng Thư Năm ngày 30 tháng Tư năm 2020 lễ đặt vòng hoa và thắp nhang tưởng niệm 45 năm quốc hận 30 tháng Tư đã được long trọng tổ chức, vì tình hình bệnh dịch Covid-19 nên năm nay không được tổ chức đông đúc như những năm trước đây, mặc dù vậy một số các tổ chức cộng đồng, hội đoàn, đoàn thể cũng đã trang nghiêm tổ chức lễ đặt vòng hoa, thắp nhang tưởng niệm 250,000 Quân Dân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa, 58,000 quân nhân Hoa Kỳ đã hy sinh trong trận chiến bảo vệ Miền Nam Việt Nam, cùng hàng triệu đồng bào đã bỏ mình trên đường vượt biên, vượt biển tìm tự do, hàng ngàn quân dân các chính VNCH đã bỏ mình trong các trại lao tù cộng sản.
Nhưng vấn đề không đơn giản như họ nghĩ để buộc người miền Nam phải làm theo vì không còn lựa chọn nào khác. Trong 45 năm qua, ai cũng biết nhà nước CSVN đã đối xử kỳ thị và bất xứng với nhân dân miền Nam trên nhiều lĩnh vực. Từ công ăn việc làm đến bảo vệ sức khỏe, di trú và giáo dục, lý lịch cá nhân của người miền Nam đã bị “phanh thây xẻ thịt” đến 3 đời (Ông bà, cha mẹ, anh em) để moi xét, hạch hỏi và làm tiền.
Kể từ sau đệ Nhị Thế chiến, Việt Nam đã hai lần trễ chuyến tàu lịch sử để toàn dân xây dựng đất nước, chỉ vì những khúc quanh oan nghiệt do Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành. Cơ hội thứ ba đang tới, những người cộng sản đang cầm quyền tại Việt Nam có biết chủ động nắm lấy nhằm thoát Tàu và thoát Cộng để chuộc lại phần nào những nỗi oan khiên đã gây ra cho cả dân tộc suốt từ sau Thế chiến Hai đến nay hay không?
Nhìn chung, CSBV và MTGPMN có ba thắng lợi: một là toàn bộ binh sĩ Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam; hai là công nhận sự hiện diện của 140.000 quân của QĐNDVN ở miền Nam và chính phủ ”ma” MTGPMN; ba là quy chế khu phi quân sự sẽ không đuợc luật quốc tế công nhận và không ai sẽ can thiệp khi vi phạm. VNCH phải chịu thất bại nặng nề, vì không có tiếng nói chính thức trong hội nghị. Hai mục tiêu duy trì binh sĩ Hoa Kỳ để tiếp tục hỗ trợ QLVNCH chiến đấu và trục xuất binh sĩ CSBV ra khỏi miền Nam đều không có kết quả. Hoa Kỳ thắng lợi vì mang binh sĩ hồi hương, một lối thoát trong danh dự của Nixon mà Kennedy và Johnson không đạt được. Hà Nội phải công nhận VNCH là một thực thể chính trị để đối thoại, phải từ bỏ yêu sách một chính phủ liên hiệp không có chính quyền Thiệu tham gia.
Trong thực tế, một người tận mắt chứng kiến cảnh chiến xa CS chạy vào dinh Độc Lập ngày 30-4-1975, kể lại đầu đuôi câu chuyện cho người viết bài nầy rất rõ ràng và hoàn toàn khác với sách vở CS đã viết. Đó là giáo sư tiến sĩ Đỗ Văn Thành, hiện nay đang giảng dạy tại đại học Oslo, Na Uy (Norway).
Từ năm 75 đến thập niên 80 có lối trên một tiệu người Việt Nam liều chết vượt biển để tìm tự do và cuối cùng một số người may mắn đã đến được bến bờ tự do. Thống kê (2007 ?) cho biết có khoảng trên 35.000 người Việt Nam sinh sống tại thành phố Montréal. Họ được gọi là Les Vietnamiens de Montréal hay Les Viéto-Montréalais. Theo thời gian, cộng đồng người Việt Montréal dần dần lớn mạnh thêm, thích nghi và hội nhập một cách êm ái vào xã hội Québec.
Trong sự hỗn loạn của chiến tranh kéo dài nhiều năm, hầu như không có một gia đình người Việt nào trong thế kỷ 20 mà không bị bức hại và phải đào thoát. Chiến tranh Việt Nam đã tạo ra hàng triệu nạn nhân, với bao người tàn phế, cô nhi, chấn thương tâm lý và để lại một đất nước hoang tàn.
Từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến ngày 30 tháng 4 năm 2020 thời gian 45 năm. Đây là một khoảng thời gia rất dài trong đời người và thời gian đủ để một quốc gia, dưới sự lãnh đạo của một tập thể hoặc cá nhân sáng suốt, có thể đưa cả một dân tộc đi lên và xoay chuyển vận mệnh như Minh Trị Thiên Hoàng của Nhật Bản, Tổng Thống Mustafa Kamal Ataturk của Thổ Nhĩ Kỳ hoặc Tổng Thống Phác Chính Hy của Nam Hàn.
Cơ Quan FDA của Hoa Kỳ chưa chấp thuận bất cứ loại thuốc nào cho việc điều trị vi khuẩn corona. Nhưng họ dự định sẽ tuyên bố sự ủy quyền sử dụng khẩn cấp đối với thuốc remdesivir, theo báo The New York Times cho biết. Việc ủy quyền có thể đến vào Thứ Tư, theo báo Times tường trình, trích thuật lời một viên chức cao cấp của chính phủ cho biết. Trong một thông báo gửi cho CNN, FDA nói rằng họ đang nói chuyện với Gilead Sciences, nhà bào chế thuốc remdesivir, về việc chế tạo thuốc cho các bệnh nhân.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.