Hôm nay,  

Song ngữ: Vô Cảm Xã Hội Và Thái Độ Của Người Phật Tử / Social Insensitivity and Buddhist Attitudes

15/06/202321:57:00(Xem: 3093)
blank

   

Song ngữ: Vô Cảm Xã Hội Và Thái Độ Của Người Phật Tử / Social Insensitivity and Buddhist Attitudes

 

Chúc Phú

 

Đừng e ngại việc nhỏ hay việc to. Nhặt một cây đinh có khả năng phá hỏng ruột xe trên quốc lộ, gọi một cú điện thoại khi thấy ai đó cần cấp cứu trên đường, ra tay chở che và hỗ trợ trong những tình huống phù hợp ở đời thường… là những việc cần làm, thể hiện cho hạnh tu thiết thực của một người cư sĩ trong thời đại hôm nay...

 

Nhìn dáng mặt khắc khổ và ánh mắt khẩn cầu xin lại bằng lái xe của chàng thanh niên bị kẻ gian móc túi trên xe buýt [i], mà báo chí đã liên tục thông tin trong những ngày gần đây, trong tôi chợt dâng lên một cảm xúc uất nghẹn và thương cảm đến nao lòng. Lần ngược lại những thông tin cũ từ các báo trong nước, chuyện hiệp sĩ Minh Tiến ham bắt cướp nên bị mất trộm xe; chuyện những đứa trẻ đánh nhau và người lớn chỉ đứng nhìn, chuyện những người hôi của từ những tai nạn giao thông thương tâm…đã cho thấy một sự dững dưng, không động lòng, mà ngôn ngữ ngày nay gọi là thái độ vô cảm xã hội, đã và đang hiện diện trong dòng sống sinh động của xã hội hôm nay. Trong khuôn khổ của một người học Phật, chúng tôi muốn sẽ chia thêm về thái độ cũng như cách hành xử cần có của người Phật tử nói chung, trước những hiện tượng này.

 

Sống là sống với

 

Cần phải thấy rằng, sống là sống với, không thể ở đâu bạn có thể sống một mình. Với cái nhìn liên hệ duyên sinh, sự hiện hữu của mỗi con người, của mỗi sự vật, hiện tượng … có quan hệ và liên hệ thâm thiết đến nhau. Do cái này có mặt, cái kia hiện hữu. Do cái này sanh, cái kia sanh[ii]. Chân lý liên hệ duyên sinh này đã được văn học Phật giáo hiện đại khái quát hóa theo kiểu văn chương như: một con muỗi đập cánh ở rừng rậm Amazon thì ở Philippine có gió mùa. Bằng cái nhìn tương tức và liên hệ đó, trong một không gian xã hội thu nhỏ, có thể thấy rõ sự khổ đau hay bất hạnh của ai đó, có sự liên đới trách nhiệm đến thái độ sống cũng như hành vi của mỗi người, trong đó có bản thân ta. Do vậy, đừng bàng quan giương mắt làm ngơ trước cái xấu, cái ác đang diễn ra trong xã hội, vì tưởng rằng chuyện đó không liên quan đến bản thân mình. Cần phải hiểu rằng, cũng do tư duy của mình, do thái độ sống của mình, do cách hàng xử ích kỷ của mình… mà cái xấu, cái ác đó có cơ sở để nảy sinh.

 

Không chỉ trên phương diện liên hệ duyên sanh, trong mối liên hệ, tác động giữa nghiệp chung (cộng nghiệp) của nhiều người và nghiệp riêng (biệt nghiệp) của từng người, đã góp phần tạo ra những nỗi bất hạnh hoặc cái xấu, cái ác. Vì lẽ, do nhân như vậy, duyên như vậy nên ta đã gặp nhau trên cõi đời này, trong cuộc sống này, tại không gian này, với bối cảnh xã hội như vậy. Không thể đơn phương trách đời, trách người, trách nhà chức trách theo dạng thức Chí Phèo thời nay. Ở đây, cần phải thấy rằng, tập tính sinh hoạt, không gian và bối cảnh xã hội có sự liên hệ sâu xa đến phước báo cũng như dẫn nghiệp, hành động của mỗi con người. Ngành khoa học nghiên cứu về tâm lý tội phạm cho thấy, có sự ảnh hưởng và liên hệ sâu xa về dấu ấn tuổi thơ, không gian gia đình, bối cảnh giáo dục, môi trường sống…có tác động rất lớn đến hành vi phạm tội của một cá nhân. Thấy rõ mối liên hệ và bối cảnh sống cụ thể, để chúng ta nỗ lực để hoàn thiện mình, góp phần hoàn thiện xã hội và đặc biệt trước mắt, là luôn giữ tâm rung cảm, trước những khổ đau cụ thể của mỗi con người.

 

Sự rung cảm trước khổ đau.

 

Lòng thương được xem là thuộc tính cơ bản của con người. Ở đâu có con người, nơi ấy có tình thương. Làm người đúng nghĩa, yêu cầu bắt buộc là phải có tình yêu thương đồng loại. Không có tình yêu thương đồng loại và không rung cảm trước nỗi khổ đau của tha nhân, thì chưa phải là một con người đúng chuẩn và đúng nghĩa.

 

Đạo Phật là tôn giáo tiêu biểu cho tình thương. Là một người Phật tử, lẽ tất nhiên tình thương dành cho con người bao giờ cũng lớn hơn người bình thường. Vì lẽ, tình thương của một người phật tử đúng nghĩa không chỉ dừng lại ở tình thương đồng loại, mà còn mở rộng thương cả vạn loại sinh linh. Trước những bất hạnh, khổ đau của tha nhân, cũng như khi đối diện với cái xấu, cái ác đã và đang len lõi xuất hiện trong hiện thực sống này, người con Phật cần phải giữ tâm rung cảm như là chuyện của chính bản thân mình. Mắt thương nhìn cuộc đời là hạnh nguyện của mười phương chư Phật mà tiêu biểu là hạnh nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm. Hạnh nguyện đó, đã là người phật tử thì phải nỗ lực noi theo và thực hiện.

 

Trước mắt, phải giữ tâm rung cảm, không xơ cứng, chai lỳ trước nỗi khổ đau của đồng loại, tha nhân. Dẫu biết rằng, chỉ giữ được tâm rung cảm như thế thôi cũng đã là một điều rất khó, trong dòng chảy phức tạp của đời sống này. Bởi lẽ, một khi năng lực bảo hộ và quản lý của nhà chức trách vẫn tồn tại những giới hạn, một khi tham dục lên ngôi và thói quen thụ hưởng tăng dần, một khi cái xấu, cái ác luôn đoanh vây và xuất hiện hằng ngày, một khi sự mưu mô, lừa lọc hiện diện khắp nẽo và niềm tin giữa con người và con người đang tụt hạng ngay cả trong những mối liên hệ, quan hệ với người thân…thì thái độ vô cảm sẽ lặng lẽ, âm thầm xuất hiện và tạo nên những hệ lụy kéo theo trong cuộc sống này.

 

Ở đây, theo quan điểm xuyên suốt của Phật giáo, không rung cảm trước nỗi khổ đau của đồng loại, tha nhân thì chưa phải là người phật tử đúng nghĩa. Vì lẽ, không rung cảm trước đau khổ của con người, đó chính là tội ác. Do đó, với cái nhìn tích cực và chủ động, người phật tử phải xem việc giữ con tim rung cảm trước nỗi khổ đau và bất hạnh của con người là một hạnh tu. Một khi hạnh tu này thuần thục, khi nhân duyên chín muồi và hoàn cảnh sống đủ điều kiện, người phật tử dễ dàng biến lý tưởng sống cao đẹp của hạnh tu trở thành hành động hiện thực, góp phần giải quyết từng nổi khổ đau cụ thể trong đời.

 

Phụng sự và dấn thân, hạnh tu ở mọi thời đại.

 

Với Phật giáo, phụng sự tha nhân được xem là hạnh tu của mọi thời đại. Ngay bản thân Đức Phật là cả một bài học sáng ngời về hạnh phụng sự, dấn thân. Đọc lại trang sử Phật hào hùng qua các thời đại, có thể thấy rõ hạnh nguyện cứu người, giúp đời của các thế hệ tiền nhân trong Phật giáo luôn được hậu thế ngưỡng vọng và tôn xưng.

 

Trong tư duy tục đế, lẽ tất nhiên, chúng ta còn rất lâu mới thành Phật và con đường cao tột đó, ta chưa thể bước vào chặng cuối của hành trình. Mặc dù vậy, đã là con Phật, ít nhiều chúng ta cũng hội tụ những tố chất như Phật, và một trong những tố chất đó, chính là tinh thần tự nguyện phụng sự và nỗ lực, dấn thân. Ở đây, điều cần phải minh định trước tiên là sự phụng sự và dấn thân trên cơ sở hoàn cảnh sống và nghiệp lực của riêng mỗi con người.

 

Tùy theo điều kiện của mình mà ta có thể lựa chọn một sự phụng sự, dấn thân thích hợp. Thái độ đó cần phải hành xử như việc cứu người đuối nước. Phải ý thức rằng năng lực của mình ra sao và sức nặng của kẻ kia thế nào để cả hai không bị chìm xuống nước. Nói rõ hơn, phụng sự tha nhân phải có sự quán sát của trí tuệ. Bởi lẽ, với hoàn cảnh sống của một người phật tử bình thường, có những rũi ro và hạn chế nhất định, trong sự dấn thân và phụng sự tha nhân.

 

Tư duy rõ ràng về điều này để có thể lựa chọn cho mình một phương cách sống dấn thân và phụng sự phù hợp. Đừng e ngại việc nhỏ hay việc to. Nhặt một cây đinh có khả năng phá hỏng ruột xe trên quốc lộ, gọi một cú điện thoại khi thấy ai đó cần cấp cứu trên đường, ra tay chở che và hỗ trợ trong những tình huống phù hợp ở đời thường…là những việc cần làm, thể hiện cho hạnh tu thiết thực của một người cư sĩ trong thời đại hôm nay. Hơn đâu hết, đã là một cư sĩ trong đời, phải sống làm sao để sự hiện hữu của mình ngoài ý nghĩa với người thân, vợ con, còn phải có ý nghĩa với những hoàn cảnh thương tâm khác.

 

Với một đất nước có trên 45 triệu người theo đạo Phật như đất nước Việt nam [iii], nếu như mỗi người cư sĩ phật tử đều ý thức và rung cảm trước khổ đau của đồng loại, tha nhân và nỗ lực dấn thân, phụng sự, thì đó là một tín hiệu đáng mừng cho đạo đức xã hội hôm nay. Trong khuôn khổ những nỗ lực trước mắt, người cư sĩ phải sống làm sao đừng bao giờ để xảy ra tình trạng, ngày đến chùa tụng kinh đều đặn, nhưng khi gặp chuyện bất hạnh của người thì ngoãnh mặt, quay lưng. Kinh Phật, ta có thể bắt gặp ở thực tế đời thường và bản kinh đó có ý nghĩa không những cho bạn, cho tôi và cho tất cả những ai đang cầu mong vơi khổ.

 

Chúc Phú

Thư Viện Hoa Sen

[i] Xem clip trên youtube tại đây: http://www.youtube.com/watch?v=JDO8MhAifig

 

[ii] Kinh Tiểu Bộ, kinh Phật tự thuyết, chương 1, phẩm Bồ đề.

 

[iii] Theo, Hòa thượng Thích Thiện Nhơn, Báo cáo của Ban thường trực Hội đồng trự sự trung ương giáo hội Phật giáo Việt nam, mục Hướng dẫn Phật tử, năm 2007.

 

Nguồn:

https://thuvienhoasen.org/a13419/vo-cam-xa-hoi-va-thai-do-cua-nguoi-phat-tu

 

 

 

…. o ….

 

Social Insensitivity and Buddhist Attitudes

 

Author: Chúc Phú

 

Translated by Nguyên Giác

 

 

Whether it's a small thing or a big one, don't be afraid. Picking up a nail that could damage the tires, making a phone call when seeing someone in need of an emergency on the road, and offering protection and support in appropriate situations in everyday life... are all things that must be done to demonstrate a layperson's practical conduct in today's era...

   

When I saw the austere face and eyes appealing for a driver's license of the young man who was snatched up by robbers on the bus, as the press has often reported in recent days, I was overcome with choking emotion and compassionate affection. Going back to old information from domestic newspapers, the story of the Minh Tiến knight who wanted to catch robbers so his car was stolen, the story of children fighting and adults just watching, the story of people looting from traffic accidents... has shown an indifference, which today's language calls an attitude of social insensitivity, which has been and is present in today's lively lifestream. Within the framework of a Buddhist practitioner, we would like to share more about the attitudes and behaviors required of Buddhists in general, before these phenomena.

 

To live means to live with.

  

It must be understood that to live is to live with, for no one can live alone. With a view of the relationship of dependent origination, the existence of any person, object, phenomenon, etc. is closely related to many others. Since this one exists, the other comes up. Because this one arises, the other appears. In the same way that a mosquito fluttering its wings in the Amazon jungle causes a rainstorm in the Philippines, modern Buddhist literature has globalized this fact of interconnectedness. In a miniature social space, with that look of engagement and connection, it is easy to clearly perceive someone's suffering or misery, with the responsibility associated to each person's attitude toward life and behavior, including ourselves. As a result, do not turn a deafening blind eye to the evil that is occurring in society because you believe it has nothing to do with you. It must be understood that the evil and the wicked have a basis to rise up, also thanks to our way of thinking, our outlook on life, and our selfish behavior.

  

Not only in terms of the dependent origination link, but also in the interaction, the impact of many people's common karma (combined karma) and each person's unique karma (separate karma) has led to unfortunateness, ugliness, and wickedness. We have met in this world, in this life, in this space, and in this social setting because of such causes and conditions. We cannot single-handedly blame life, the people, or the authorities in the form of Mr. Chí Phèo today. Here, we must recognize that living habits, space, and social context are all inextricably linked to merit, as well as each person's karma and activities.

  

Scientific research on criminal psychology demonstrates that there is a profound influence and connection intermixing with childhood imprinting, family space, educational context, living environment, and so on, which have a significant impact on an individual's illegal misconduct. The goal of seeing the relationship and the specific life context clearly is for us to make efforts to develop ourselves, contribute to the progress of society, and, especially, always keep our hearts moving in the face of the specific sufferings of every human being.

  

 

 

Emotions in the face of suffering

 

Love is considered a basic human attribute. Where there are people, there is love. To be a true human being, love for other human beings is a mandatory requirement. One is not yet a standard and authentic human being if he does not love his fellow man and is not moved by the sufferings of others.

  

Buddhism is a religion that embodies love. Of course, a Buddhist's love for people is always higher than that of regular people. As a result, a Buddhist's true love includes not only the love of other people but also the love of all living things. In the face of other people's misfortunes and afflictions, as well as observing evil seeping into this live reality, a Buddha's child must keep his heart moving as if it were his own. Contemplating life with love is the vow of the Buddhas of the ten directions, represented by the vow of the Bodhisattva Avalokitesvara. Every Buddhist must endeavor to follow and put that loving promise into action.

  

First and foremost, Buddhists must maintain a heartbeat that is not rigid or indifferent to the suffering of others. Even understanding that maintaining a vibrating heart is a challenging task in the intricate flow of our existence. Because, as long as the authorities' capacity for protection and management remains limited, when greed takes the throne and the habit of enjoyment grows, when evil surrounds and appears every day, when intrigues and deceptions appear everywhere, and trust between people falls even in relationships with relatives... the insensitive attitude will silently appear and create bad consequences in this life.

  

Here, the central point of Buddhism states that a true Buddhist is one who is moved by other people's suffering. It is a crime not to be moved by human misery. As a result, Buddhists must see keeping their hearts moving in the face of human suffering and sadness as a practice, with a constructive and proactive attitude. Once this practice is mature, when the predestined conditions are ripe and the living situations are adequate, Buddhists can easily translate the noble ideal of a spiritual practice into concrete acts, contributing to the resolution of all suffering, specifically in life.

  

Serving and engaging: a spiritual practice at all times.

  

With Buddhism, serving others is considered the practice of all times. Even the Buddha himself is a shining lesson in serving and engaging actions. Reading through the heroic Buddhist history, it is apparent that the pledges to save people and help societies of the forefathers in Buddhism have always been revered and respected by posterity.

  

Naturally, in secular thought, we are still a long way from becoming Buddha, and on that lofty path, we have not yet reached the final stage of the journey. However, as Buddha's children, we are learning to have some of Buddha's qualities, one of which is the spirit of voluntary serving and engagement. What needs to be clarified first is serving and engaging based on each person's own life condition and karma.

   

We can select an appropriate form of engaging and serving work based on our individual circumstances. That attitude ought to act like rescuing someone from a river. Be aware of your own strength as well as the weight of the other to avoid sinking into the water. To be more specific, serving others requires wise observation. Because, with the living situation of an ordinary Buddhist, there are certain risks and limitations in serving and engaging others.

  

Think clearly about this so that you can choose for yourself a suitable way of life of serving and engaging. Whether it's a small thing or a big one, don't be afraid. Picking up a nail that could damage the tires, making a phone call when seeing someone in need of an emergency on the road, and offering protection and support in appropriate situations in everyday life... are all things that must be done to demonstrate a layperson's practical conduct in today's era... Above all, as a lay person, a Buddhist must live in a way that is meaningful to one's spouse, children, and relatives, as well as to others in need.

  

In a country with over 45 million Buddhists, such as Vietnam, if every Buddhist lay follower is aware of and moved by the sufferings of their fellow human beings, and makes every effort to participate and assist, that would be a positive indicator for today's social morals. Within the context of the immediate efforts, lay people should live in such a way that they never allow the following situation to occur: going to the temple every day to chant sutras and turning their backs on people's tragedies. We can meet Buddhist scriptures in real life and those sutras have significance not only for you, for me, and for all those who are practicing for some relief from suffering.

 

(All the notes were removed for the audio version.)

 

.... o ....

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hội Đồng Giám Sát Quận Cam đã bỏ phiếu với tỉ lệ 5 trên 0 vào chiều Thứ Ba, 28 tháng 4 để mở cửa các cơ sở kinh doanh với những hướng dẫn bảo đảm sự an toàn của công chúng. Các hướng dẫn được giới thiệu bởi nữ Chủ Tịch Michelle Steel và Giám Sát Viên Don Wagner được thông qua bởi hội đồng sẽ áp dụng như mô hình cho Quận Cam để trở lại tình trạng sinh hoạt bình thường, theo các viên chức cho biết. Theo hội đồng, “Tất cả đề nghị theo Cơ Quan Chăm Sóc Sức Khỏe Quận Cam và không thay thế bất cứ lệnh mâu thuẫn hay hạn chế nào được đưa ra bởi các chính quyền địa phương, Tiểu Bang California, hay Chính Phủ Liên Bang.” “Quận Cam đã “làm thẳng đường cong” một cách hiệu quả.”
Dân Biểu Liên Bang Hoa Kỳ Alan Lowenthal (CA-47) ngày hôm nay đã đệ trình Nghị Quyết Hạ Viện ghi nhận biến cố lịch sử quan trọng và tưởng niệm 45 năm ngày Sài Gòn thất thủ và sự sập đổ bi thảm của Việt Nam Cộng Hòa. Vào ngày 30 tháng 4, năm 1975, Sài Gòn, thủ đô Việt Nam Cộng Hòa đã bị lực lượng Cộng sản xâm chiếm trong Tháng Tư Đen và Sài Gòn đã bị thất thủ. Mỗi năm biến cố trọng đại này được các cộng đồng người Mỹ gốc Việt khắp Hoa Kỳ tổ chức tưởng niệm.
Nhân dịp lần thứ 45 tưởng niệm biến cố Tháng Tư Đen, Dân Biểu Liên Bang Harley Rouda (Địa Hạt 48) đã gởi thông điệp đến với cộng đồng Người Mỹ gốc Việt tại Quận Cam: Trong thông điệp này, Dân Biểu Rouda cũng nhắc đến những người trong cộng đồng chúng ta mà ông vừa vinh danh: Tướng Lê Minh Đảo, nhạc sĩ Trúc Hồ, Bác Sĩ Phạm Đỗ Thiên Hương.
Tuần này sẽ đánh dấu nhiều mốc ngoặc mới trong đại dịch vi khuẩn corona khi các trường hợp bị lây nhiễm tại Hoa Kỳ đã hơn 1 triệu, ngày càng có nhiều cơ sở kinh doanh tái mở cửa và một số nhân viên y tế địa phương bắt đầu thử nghiệm kháng thể cho công chúng, theo bản tin của CNN cho biết hôm Thứ Hai, 27 tháng 4 năm 2020. Tính tới Thứ Hai, Hoa Kỳ đã có 1,008,571 trường hợp bị lây, với 56,521 người thiệt mạng.
3 videos ngắn cho thấy “hiện tượng xuất hiện trong không gian không xác định” đã được công bố bởi Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. Các video, đã được phổ biến trước đây bởi một công ty tư nhân, cho thấy cái gì đó trông giống các vật bay không xác định di chuyển nhanh trong khi được thu hình bởi các máy thu hồng ngoại tuyến, theo CNN tường trình cho biết. 2 trong 3 video, các quân nhân có thể nghe được sự phản ứng các vật bay nhanh như thế nào. Một giọng nói cho thấy nó có thể là một chiếc robot.
Tháng Tư lại trở về, gợi nhớ đến ngày cuối cùng, lúc toàn miền Nam rơi vào tay đoàn quân xâm lược từ phương bắc, lần này là lần thứ 45! Trong ký ức của mỗi người dân miền Nam chúng ta, có biết bao nhiêu khúc phim lại được dịp hiển hiện, rõ ràng và linh động như vừa mới hôm qua. Có người nhớ đến cảnh hỗn loạn ở phi trường Tân Sơn Nhất, có người không sao quên được những năm tháng tù tội trong trại giam cộng sản, có người nghẹn ngào ôn lại cảnh gia đình ly tán trong những ngày kinh hoàng đó, và có biết bao người còn ghi khắc mãi những ngày lênh đênh trên sóng nước mịt mù hay băng qua rừng sâu núi thẳm để tìm đến bến bờ tự do.
Tối nay 22 Tháng Tư, chính quyền Trump đã ban hành một Sắc lệnh mở rộng những hạn chế về nhập cư trong một nỗ lực rộng lớn để tiếp tục chương trình bài ngoại nhằm đánh lạc hướng người Mỹ về thất bại của chính họ qua các giải pháp thích ứng với đại dịch coronavirus. Sắc lệnh này được xây dựng trên một số chính sách chống người nhập cư do chính quyền đưa ra trong vài năm qua đóng cửa gần như tất cả các con đường hợp pháp để nhập cư.
Bắt đầu từ sau giữa tháng Ba 2020, hầu hết các doanh nghiệp không thiết yếu trên khắp Hoa Kỳ đều đã lần lượt được lệnh phải đóng cửa để ngân chận sự lây lan của Coronavirus, trong đó có hàng chục ngàn tiệm Nail của người gốc Việt. Vì buộc phải đóng cửa một cách bất ngờ và cũng bởi chưa đến ngày trả lương theo định kỳ, nhiều chủ tiệm Nail đã không kịp thanh toán cho nhân viên khoản tiền lương của những ngày đã làm việc từ sau lần lãnh lương trước đó cho đến ngày ngưng làm việc vì Coronavirus. Ngoài ra, vì nghĩ rằng sẽ không bị buộc phải đóng cửa quá lâu, nhiều chủ tiệm Nail dự tính sẽ trả đủ tiền lương ngay khi nhân viên trở lại làm việc. Tuy nhiên, rất ít chủ doanh nghiệp hiểu rằng không thanh toán tiền lương theo đúng quy định cho nhân viên sau khi nghỉ việc, sẽ là nguyên nhân dẫn đến vô số rắc rối về pháp lý.
Những người có khuynh hướng cực đoan trong chính kiến, dù hữu khuynh hay tả khuynh, đều có những đặc điểm giống nhau và rất khác người ôn hoà. Bài viết này tóm lược một nghiên cứu tâm lý học đăng trên Sage Journals tháng Giêng 2019. Hy vọng nó sẽ giúp ta hiểu thêm về hiện tượng tâm lý chính trị cực đoan để tránh bị khích động, đồng thời giúp ta tìm ra cách hoá giải. Xin lưu ý “hữu khuynh”và “tả khuynh” trong bài được dùng theo định nghĩa thông thường và hoàn toàn không hàm ý tốt hay xấu. Trong chính trị học, cộng đồng con người thường được chia làm ba nhóm: cấp tiến (liberal), trung hoà (moderate) và bảo thủ (conservative). Sự phân cách này phần lớn xuất phát một cách tự nhiên, nhưng nó cũng có thể được nhào nặn thêm bởi giáo dục, truyền thống, truyền thông, xã hội v.v.
nhà báo kỳ cựu Don Oberdorfer trên tờ Washington Post ngày 3/3/1987 nhấn mạnh lời tuyên bố của trưởng đoàn IRAC: “Chúng tôi (người tị nạn) vẫn bị coi là một vấn đề cần giải quyết. Nay chúng tôi nhất định sẽ góp phần vào giải pháp.”
Tôi sinh ra đời tại miền Nam, cùng thời với “những tờ bạc Sài Gòn” nhưng hoàn toàn không biết rằng nó đã “làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ” của nửa phần đất nước. Và vì vậy, tôi cũng không thấy “phấn khởi” hay “hồ hởi” gì (ráo trọi) khi nhìn những đồng tiền quen thuộc với cuộc đời mình đã bị bức tử – qua đêm! Suốt thời thơ ấu, trừ vài ba ngày Tết, rất ít khi tôi được giữ “nguyên vẹn” một “tờ bạc Sài Gòn” mệnh giá một đồng. Mẹ hay bố tôi lúc nào cũng xé nhẹ nó ra làm đôi, và chỉ cho tôi một nửa. Nửa còn lại để dành cho ngày mai. Tôi làm gì được với nửa tờ giấy bạc một đồng, hay năm cắc, ở Sài Gòn – vào năm 1960 – khi vừa mới biết cầm tiền? Năm cắc đủ mua đá nhận. Đá được bào nhỏ nhận cứng trong một cái ly nhựa, rồi thổ ra trông như hình cái oản – hai đầu xịt hai loại xi rô xanh đỏ, lạnh ngắt, ngọt lịm và thơm ngát – đủ để tôi và đứa bạn chuyền nhau mút lấy mút để mãi
Chiến tranh Việt Nam có hai chiến trường: Đông Dương và Mỹ. Bắc Việt cố gắng kéo dài cuộc chiến trên chiến trường Việt Nam và đồng thời làm mệt mỏi công luận trên chiến trường Mỹ. Đứng trườc chiến lược này và kế thừa một di sản là sức mạnh quân sự, các tình trạng tổn thất và phản chiến đang gia tăng, Tổng thống Nixon cân nhắc mọi khả năng trong chính sách. Nixon quyết định chỉnh đốn các trận địa chiến cho miền Nam Việt Nam trong khi củng cố khả năng chiến đấu cho họ. Sự giảm bớt vai trò của chúng ta sẽ hỗ trợ cho công luận trong nước Mỹ. Trong thời gian này, Nixon cũng để cho Kissinger tổ chức mật đàm càng nhanh càng tốt.
Bất kỳ chiến lược nào để giảm bớt mối đe dọa từ các chính sách xâm lược của Trung Quốc phải dựa trên sự đánh giá thực tế về mức tác động đòn bẩy của Hoa Kỳ và của các cường quốc bên ngoài khác đối với sự tiến hóa bên trong nội bộ Trung Quốc. Ảnh hưởng của những thế lực bên ngoài đó có giới hạn về cấu trúc, bởi vì đảng sẽ không từ bỏ các hoạt động mà họ cho là quan trọng để duy trì sự kiểm soát. Nhưng chúng ta quả thực lại có những khí cụ quan trọng, những khí cụ này hoàn toàn nằm ngoài sức mạnh quân sự và chính sách thương mại. Điều ấy là những phẩm chất “Tự do của người Tây phương” mà người Trung Quốc coi là điểm yếu, thực sự là những sức mạnh. Tự do trao đổi thông tin, tự do trao đổi ý tưởng là một lợi thế cạnh tranh phi thường, một động cơ tuyệt vời của sự cách tân và thịnh vượng. (Một lý do mà Đài Loan được xem là mối đe dọa đối với Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, chính là vì nó cung cấp một ví dụ với quy mô tuy nhỏ nhưng lại hùng hồn về sự thành công của hệ thống chính trị và kin
Chết phải là một chuyến du lịch tuyệt vời vì chưa có một ai đã trở về!(“La mort doit être un beau voyage puisque personne n'en est revenue”). Thông thường trong những dịp Tết, người đời thường chúc tụng lẫn nhau sống thọ đến trăm tuổi. Không phải ai muốn chết lúc nào là chết được đâu. Phải tới số mới chết. Trời kêu ai nấy dạ mà Sống quá thọ có tốt, có cần thiết không? Không có ai nghĩ giống ai hết. Đặt câu hỏi như trên có thể làm nhiều người cảm thấy khó chịu, nhưng đó là sự thật. Tuổi thọ (longévité) trong điều kiện sức khoẻ bình thường, không ngừng gia tăng thêm lên mãi tại các quốc gia kỹ nghệ giàu có... Sự gia tăng nầy thật ra phải được xem như là một sự kéo dài của tuổi trẻ (jeunesse) hơn là một sự kéo dài của…tuổi già (vieillesse). Tại sao chúng ta già? Tuổi thọ đến lúc nào sẽ dừng lại? Nhân loại đã đạt được đến mức nầy hay chưa?
Nửa tháng trước hiệp định Genève (20-7-1954), trong cuộc họp tại Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Cộng), từ 3 đến 5-7-1954, thủ tướng Trung Cộng Châu Ân Lai khuyên Hồ Chí Minh (HCM) chôn giấu võ khí và cài cán bộ, đảng viên cộng sản (CS) ở lại Nam Việt Nam (NVN) sau khi đất nước bị chia hai để chuẩn bị tái chiến. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, Dương Danh Dy dịch, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 "Hội nghị Liễu Châu then chốt".) (Nguồn: Internet). Hồ Chí Minh đồng ý.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.