Hôm nay,  

Song ngữ: Right in birth and death / Tìm trong sống chết

03/08/202308:54:00(Xem: 2869)
blank

Song ngữ: Right in birth and death /

Tìm trong sống chết

 

Nguyễn Thế Đăng

 

Sống chết là vấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất, bởi vì đạo Phật không là gì khác hơn là con đường thoát khỏi sanh tử, dập tắt sanh tử khổ đau. Và trái ngược với sanh tử là Niết-bàn, tạm hiểu là thoát khỏi sanh tử.

 

Nói trực tiếp đến sống chết, ở đây chúng ta trích ra một đoạn đối thoại giữa Thiền sư Thiện Hội (?-900) đời thứ hai dòng thiền Vô Ngôn Thông, là thầy và trò là Thiền sư Vân Phong (?-956):

 

Thần Hội thường bảo Vân Phong: “Sống chết là việc lớn, cần phải thấu triệt”.

 

Sư Vân Phong hỏi: “Khi sống chết đến, làm sao tránh thoát?”.

 

Thần Hội đáp: “Hãy nắm lấy chỗ không sống chết mà tránh”.

 

Sư hỏi: “Thế nào là chỗ không sống chết?”.

 

Thần Hội đáp: “Chính trong sống chết hiểu lấy mới được”.

 

Sư Quảng Nghiêm (1122-1190) khi đến nghe Thiền sư Trí Thiền giảng ngữ lục của Thiền sư Tuyết Đậu, đến chuyện Đạo Ngô và Tiệm Nguyên đến điếu tang và đối đáp về việc sống chết, sư có sở đắc, liền hỏi:

 

“Một câu thoại đầu mà cổ nhân nói ấy, trong ấy lại có Lý (chân lý) hay không?”.

 

Thiền sư Trí Thiền nói: “Ngươi thể hội được Lý ấy chăng?”.

 

Sư Nghiêm hỏi: “Lý không có sanh tử là thế nào?”.

 

Thiền sư Trí Thiền đáp: “Chỉ chính trong sanh tử mới có được nó”.

 

Cả hai câu chuyện đều nêu ra một giải pháp có vẻ nghịch lý. Muốn tránh khỏi sống chết thì phải nắm lấy chỗ không sống chết, mà chỗ không sống chết này lại phải tìm trong chính chỗ sống chết. Chân lý “không có sanh tử” phải tìm chỉ chính trong sanh tử mới có. Tóm lại, muốn giải thoát khỏi sanh tử thì phải vào trong sanh tử.

 

 

“Chỗ không sống chết, chân lý không có sanh tử” này chính là tánh Không của sanh tử; tánh Không của sanh tử không có ngoài sanh tử, phải tìm trong chính sanh tử. Tánh Không của sanh tử là sự giải thoát cho sanh tử, và sự giải thoát này ở ngay trong chính sanh tử.

 

Bản tánh của sanh tử là tánh Không, cho nên muốn thoát khỏi những hiện tướng của sanh tử, phải tìm thấy bản tánh Không của những hiện tướng sanh tử ấy.

 

Kinh Duy-ma-cật, phẩm Nhập Pháp môn Bất nhị nói:

 

“Bồ-tát Na La Diên nói: ‘Thế gian và xuất thế gian là hai. Thế gian tánh Không, tức đó là xuất thế gian, trong đó không có đi vào không có ra khỏi, không tiến bộ,không lui sụt.Đó là vào pháp môn không hai’.

 

Bồ-tát Thiện Ý nói: ‘Sanh tử và Niết-bàn là hai. Nếu thấy tánh sanh tử, thì không có sanh tử, không có trói buộc, không có giải thoát, không sanh không diệt. Hiểu như vậy, đó là vào pháp môn không hai’.

 

“Tánh sanh tử thì không có sanh tử, không có trói buộc, không có giải thoát, không sanh không diệt” nghĩa là tánh sanh tử là Niết-bàn, và Niết-bàn ấy cũng là tánh Không. Như thế, muốn tránh khỏi sanh tử thì phải đi vào chính sanh tử để tìm thấy bản tánh của sanh tử, và bản tánh của sanh tử là Niết-bàn tánh Không.

 

Sự sống chết vô thường không chỉ nằm bên ngoài chúng ta, nơi những sự vật mà giác quan chúng ta dễ dàng tri giác. Sống chết nằm ngay nơi chúng ta, nơi tâm chúng ta: đó là sự sống chết của những tư tưởng tạo thành tâm chúng ta. Một tư tưởng cũng sống và chết. Nó sanh ra (sanh), tồn tại ở đó (trụ) và tiêu tan mất (diệt). Tâm chúng ta không có ngoài những tư tưởng, nên khi những tư tưởng sống chết thì tâm chúng ta cũng sống chết.

 

Đạo Phật thường hay nói, “Tất cả do tâm tạo”. Kinh Pháp cú, câu đầu tiên là: “Tâm dẫn đầu các pháp, tâm làm chủ, tâm tạo”. Thế giới, cuộc đời như mỗi người kinh nghiệm, là do tâm họ tạo ra. Thế giới và cuộc sống con người khác với thế giới và cuộc sống của con vật, sự khác biệt đó là sự khác biệt của tâm của con người và con vật.

 

Khi đạo Phật nói “Ba cõi duy chỉ là tâm”, “Tất cả do tâm tạo”, thì khi ba cõi là sống chết, là sanh tử có nghĩa là tâm là sống chết, là sanh tử. Sự sống chết, sanh tử của tâm đã tạo ra sự sống chết, sanh tử của thế giới và cuộc đời. Cho nên để thoát khỏi sự sống chết của thế giới và cuộc đời, phải thoát khỏi sự sống chết của tâm, hay sự sống chết của các tư tưởng.

 

Áp dụng điều hai vị Thiền sư ở trên đã chỉ dạy, chúng ta thấy rằng muốn tránh khỏi sự sống chết của những tư tưởng phải tìm trong chính sự sống chết của tư tưởng. Chúng ta phải tìm thấy và sống trong “chỗ không sống chết”, “chân lý không có sống chết” của chính những tư tưởng sống chết trong từng khoảnh khắc.

 

Ở đây chúng ta chỉ bàn đến một cách trong rất nhiều phương pháp để rõ tâm (biện tâm – chữ của vua Trần Thái Tông trong Khóa hư lục), bởi vì tất cả các tông phái, các pháp môn Phật giáo đều hướng đến mục đích này.

 

Quán chiếu một tư tưởng, chúng ta thấy nó không phải tự sanh ra, vì nếu nó tự sanh ra thì trước đã có nó. Nó cũng không sanh ra từ một tư tưởng khác, vì trước đó không có một tư tưởng khác nào cả. Nó cũng không sanh ra từ chính nó và cái khác cọng lại, vì đơn giản trước đó chưa có nó và cái khác. Nó cũng không phải tự nhiên sanh ra mà không có nhân duyên. Quán sát kỹ lưỡng, lập đi lập lại chúng ta sẽ thấy ra thật tánh của nó, như ngài Long Thọ đã nói trong Trung luận, phẩm thứ nhất, câu 3:

 

Các pháp chẳng tự sanh,

Chẳng từ cái khác sanh,

Chẳng cùng, chẳng không nhân, Thế nên biết Vô sanh.

 

Thật tánh của những tư tưởng là vô sanh, không thật có sanh ra. Thấy được như vậy, những tư tưởng không còn trói buộc, chúng tự giải thoát. Và khi những tư tưởng của chúng ta tự giải thoát thì thế giới sanh tử như chúng ta thấy cũng tự giải thoát.

 

Khi khảo sát kỹ lưỡng một tư tưởng, hay còn gọi là một tâm, sanh ra, chúng ta không thấy chỗ sanh ra của tư tưởng ấy, của tâm ấy. Khi tồn tại, nó trụ chỗ nào? Và khi diệt mất, nó diệt mất chỗ nào? Vì không thấy chỗ sanh, trụ, diệt của một tâm niệm, một tư tưởng, nên bằng thiền định và thiền quán chúng ta thấy nó sanh, trụ, diệt trong một khoảng không gian bao la đến vô hạn. Bởi thế, kinh thường nói “tâm như hư không”, nghĩa là khoảng không gian

 

cho tư tưởng hay tâm niệm sanh, trụ, diệt thì bao la không biên bờ như không gian, như hư không.

 

Không gian bao la vô hạn cho hoạt động sanh, trụ, diệt của tư tưởng hay của tâm được gọi là bản tâm hay bản tánh của tâm. Đó là nơi cho tâm sanh ra và tâm diệt mất. Đó là nền tảng vô hạn của tâm, không gian vô hạn cho tâm.

 

Như không gian, bản tánh của tâm, nền tảng của tâm thì vô hạn, không có hình tướng, màu sắc, không thuộc về nhận thức của giác quan và ý thức. Cái đó là tánh Không. Bản tánh của tâm là tánh Không của tâm.

 

Như không gian của bầu trời là nơi cho các đám mây tan biến, bầu trời là nơi giải thoát của các đám mây. Như đại dương là nơi cho các làn sóng tiêu tan, đại dương là nơi giải thoát của các làn sóng. Cũng thế không gian của tâm, tánh Không của tâm là nơi giải thoát cho các tư tưởng, các tâm, các phiền não.

 

Như không gian bầu trời nằm trong chính các đám mây, như đại dương nằm trong chính các làn sóng, tánh Không, sự giải thoát cho mọi loại tâm, nằm trong chính các tư tưởng, các phiền não. Tánh Không của tâm là “chỗ không sống chết” cho tất cả mọi tâm sống chết, là “lý không có sanh tử” cho mọi sanh tử của tâm, và tánh Không của tâm nằm ngay nơi từng tư tưởng, từng phiền não, từng mỗi loại tâm.

 

Tánh Không của tâm không phải là một hư không không có gì cả, nó có ánh sáng. Thậm chí ánh sáng là bản tánh của tâm, như trong Nikaya có nói: “Tâm này là sáng chói, nhưng tâm này bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào”.

 

(Kinh Tăng chi bộ, phẩm Búng ngón tay, phẩm Đặt Đúng hướng và Trong sáng)

 

Bản tánh của tâm là tánh Không và sáng chói, đó là nền tảng giải thoát cho mọi thứ tâm sanh tử và nó nằm ngay nơi mọi thứ tâm sanh tử.

 

Nguồn:

https://thuvienhoasen.org/a34514/tim-trong-song-chet-nguyen-the-dang-

 

.... o ....

 

Right in birth and death

 

Author: Nguyễn Thế Đăng

Translated by Nguyên Giác

 

 

Birth and death are the most significant challenges in human life. In Buddhism, the terms "birth" and "death" are frequently mentioned, as Buddhism is essentially a path to transcend birth and death and alleviate the suffering associated with them. And the opposite of birth and death is Nirvana, roughly understood as being liberated from the cycle of birth and death.

  

Speaking directly about birth and death, we quote a dialogue between Zen Master Thiện Hội (?-900), the second generation of the Vô Ngôn Thông Zen lineage, who was a teacher, and his student, Zen Master Vân Phong (?-956).

 

Thần Hội often said to Vân Phong, "Birth and death are significant matters that require thorough understanding."

Vân Phong asked, "How can we escape when birth and death come?"

"Hold on to the realm beyond birth and death," replied Thần Hội.

Vân Phong asked, "What is the place of neither birth nor death?"

"It is in the realm of birth and death that we must strive to comprehend it fully and embrace it," replied Thần Hội.

 

Listening to Zen Master Trí Thiền discuss Zen Master Tuyết Đậu's book of records and hearing about Đạo Ngô and Tiệm Nguyên attending the funeral and discussing birth and death, Monk Quảng Nghiêm (1122-1190) appeared to grasp something and subsequently posed a question.

 

"Is there a principle in that realm before words are formed, as the ancient masters have indicated?"

Zen master Trí Thiền asked, "Can you comprehend that principle?"

Quảng Nghiêm asked, "What is the principle of being without birth and without death?"

Zen master Trí Thiền replied, "It is only through birth and death that it can be attained."

 

Both stories present a seemingly paradoxical solution. To avoid birth and death, one must grasp the place of no birth and no death, and this place of no birth and no death must be sought in the very place of birth and death. The truth that "there is no birth and no death" must be found within birth and death themselves. In short, to be liberated from birth and death, one must enter birth and death.

  

This “place of no birth and no death, where the truth of no birth and no death is revealed” is the inherent emptiness of birth and death. The inherent emptiness of birth and death does not exist outside of the realm of birth and death; it is only found within birth and death itself. The inherent emptiness of birth and death is the key to freeing oneself from the cycle of birth and death. This liberation can be found within the very process of birth and death.

  

Because the nature of birth and death is inherent emptiness, to be liberated from the manifestations of birth and death, one must discover the inherent emptiness within those manifestations.

  

The Vimalakirti Sutra says in the chapter Nhập Pháp môn Bất nhị (Entering through the non-dual door), “The Bodhisattva Na La Diên says: 'The world and the transcendent world are two. The world has an inherent emptiness; thus, it is the transcendent world, in which there is no entry, no exit, no progress, or no regression. That means entering through the gate of non-dual dharma.'”

  

The Bodhisattva Thiện Ý said: "The cycles of birth and death and Nirvana are two. If you see the nature of birth and death, then there is no birth and death, no bondage, no liberation, no birth, and no death. Thus, it is entering the non-dual dharma."

 

"The nature of birth and death is truly neither birth nor death, neither bondage nor liberation, neither appearing nor disappearing"—this implies that the nature of birth and death is Nirvana and that Nirvana is also characterized by inherent emptiness. Thus, to avoid birth and death, one must go into birth and death to find the nature of birth and death, and the nature of birth and death is inherent emptiness that leads to Nirvana.

  

Not only do impermanent birth and death exist outside of us, but they are also present in things that are easily perceptible to our senses. Birth and death are inherent within us, within our minds; it is the birth and death of thoughts that constitute our minds. A thought also experiences birth and death. It is born (sinh), stays (trụ), and then perishes (diệt). Our mind does not exist apart from thoughts. Therefore, when thoughts undergo birth and death, our mind also undergoes birth and death.

  

Buddhism often says, "It's all mind-made." In the Dhammapada, the first sentence is: "All things are preceded, surpassed, and created by the mind." The world and life, as each person experiences them, are created by their minds. The world and human life are distinct from the world and lives of animals, and this distinction lies in the presence of a mind in humans that animals do not possess.

  

When Buddhism says that "the three realms are only mind" or says "All is created by the mind," then the three realms are life and cessation, birth and death; it means that mind is life and cessation, birth and death. Life and cessation, the birth and death of the mind, created life and cessation, the birth and death of the world, and life. So to be free from the life and cessation of the world and life, one must be free from the life and cessation of the mind, or the life and cessation of thoughts.

 

Applying the teachings of the two Zen masters mentioned above, we come to understand that in order to transcend the cycle of thoughts arising and ceasing, we must discover freedom within the very process of thoughts arising and ceasing. We must seek and embrace the state of "no birth and no death," where the concept of "truth" transcends the boundaries of birth and death, encompassing the ever-changing thoughts that arise and pass away in every moment.

  

Here, we will only discuss one of the many methods to see clearly the mind ("biện tâm"—words of King Tran Thai Tong in the book "Khóa Hư Lục"), because all Buddhist sects and dharma gates are focused on achieving this goal.

  

Observing a thought, we see that it is not self-generated, because if it were, it would have been there before. It also does not arise from another thought because there was no other thought before. Nor does it arise from itself and from the other combined, for it simply did not exist before and there was no other. It is also not naturally born without causes and conditions. Observing closely and continuously, we will see its true nature, as Nagarjuna said in the Madhyamaka, first chapter, third sentence:

 

Dharmas are not self-born,

nor are they born from another,

nor are they born together with another,

nor are they without a cause.

So, the dharmas are called "unborn."

 

The true nature of thoughts is unborn because there is no real birth. Seeing this, the thoughts no longer have the power to bind, and then the thoughts liberate themselves. And when our thoughts liberate themselves, the world of birth and death, as we see it, also liberates itself.

 

When we carefully observe a thought or a consciousness when it arises, we do not see the birthplace of that thought or that mind. When that thought exists, where does it stay? And when it disappears, where does it disappear? Because we do not see the birth, abiding, and cessation of a single thought, by meditation and contemplation we see it arising, remaining, and passing away in a vast to infinite space. Therefore, the sutras often say "mind is like space," meaning that the space for the mind or for a thought to arise, stay, and die is boundless, just like space, like the sky.

  

The vast, infinite space for the arising, abiding, and passing away of consciousness, or mind, is called the mind-nature or the nature of the mind. That is the realm in which the mind arises and passes away. That is the boundless realm of the mind, the infinite space of the mind.

  

Just as space, the nature of the mind is limitless. It is formless, colorless, and does not belong to the realm of senses or conscious awareness. That is the nature of emptiness. The nature of the mind is its inherent emptiness.

 

Just as the space of the sky is the place for the clouds to disappear, the sky is the place for the deliverance of clouds. Just as the ocean is the place for the waves to disappear, the ocean is the place for the deliverance of waves. Likewise, the space of the mind, i.e., the emptiness of the mind, is the place for the deliverance of thoughts, consciousnesses, and even defilement.

  

Like space, the sky lies within the clouds themselves, just as the ocean lies within the waves themselves. Emptiness, which is the liberation of all types of mind, lies within every thought and within every defilement. The emptiness of mind is the "realm of no birth and no death" for each mind of birth and death, the "principle of no birth and no death" for all birth and death of the mind, and the emptiness of mind lies right there, in every thought, in every defilement, and in every type of mind.

  

The emptiness of the mind is not a kind of nothingness; it has light. Even light is the nature of the mind, as stated in The Chapter on a Finger-Snap in Aṅguttara Nikaya: "Luminous, monks, is the mind. And it is defiled by incoming defilements." (AN 1.51–60 Sutta, translated by Thanissaro Bhikkhu)

 

The nature of the mind is inherent emptiness and luminosity; that nature is the liberating ground for all minds of birth and death, and it lies at the heart of all minds of birth and death.

 

.... o ....



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Theo CNN, với các tin tức chính thức từ truyền thông Iran và Israel, thỏa thuận ngừng chiến giữa hai nước đã bắt đầu. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều nghi vấn về thời điểm chính xác cũng như các điều khoản cụ thể về thỏa thuận này. Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump trước đó đã loan báo trên mạng xã hội rằng thỏa thuận ngừng chiến sẽ bắt đầu vào khoảng sáu tiếng đồng hồ sau khi ông công bố lần đầu tiên. Thời điểm này ước tính vào khoảng nửa đêm giờ miền Đông Hoa Kỳ.
(Ngày 23 tháng 6, Reuters) – Tình hình căng thẳng tại Trung Đông tiếp tục leo thang khi Iran phóng 14 phi đạn nhắm vào một căn cứ quân sự của Hoa Kỳ tại Qatar rạng sáng thứ Hai. Mặc dù không gây ra thương vong nào, sự việc đã khiến cộng đồng quốc tế lo ngại về nguy cơ cuộc xung đột kéo dài suốt 12 ngày qua sẽ càng lan rộng. Tổng thống Donald Trump “chê” vụ tấn công này là “đòn gãi ngứa,” và lên tiếng kêu gọi cả Iran lẫn Israel cùng hướng đến hòa bình.
Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ hôm thứ Hai đã tạm thời dỡ bỏ một phán quyết của tòa cấp dưới, vốn yêu cầu chính quyền Trump phải báo trước ít nhất 15 ngày trước khi trục xuất người di dân sang một quốc gia không phải quê hương họ, theo bản tin của NPR.
Tustin, Santa Ana, California – (The Independent): Trưa thứ Bảy, ngày 21 tháng 6, 2025, một người cha của ba quân nhân Hoa Kỳ đã bị đánh đập và bị bắt giữ giữa ban ngày bởi một nhóm người bịt mặt mặc đồng phục có dấu hiệu thuộc Tuần Tra Biên Giới (U.S. Border Patrol), theo đoạn phim lan truyền mạnh trên mạng xã hội. Nạn nhân là ông Narciso Barranco, 48 tuổi, làm nghề làm vườn tại Tustin, Quận Cam. Khoảng bảy người ập đến khi ông đang làm việc trước một tiệm ăn IHOP ở Santa Ana. Video cho thấy ông bị đè xuống đất, đập đầu ít nhất sáu lần, kẹp cổ, bị đánh, rồi bị kéo lê lên một chiếc xe SUV không biển số, trong khi vẫn rên rỉ và kêu cứu. “Cha tôi bỏ chạy vì hoảng sợ – ông không biết ai đang đuổi theo mình. Họ không hỏi gì, chỉ xông đến đánh và bắt,” Alejandro Barranco, 25 tuổi, cựu Thủy quân lục chiến từng đóng quân ở Afghanistan nói với tờ Los Angeles Times.
Trong chương trình Tình Trạng Liên Bang (State of the Union) của CNN vào sáng Chủ Nhật, Thượng nghị sĩ Adam Schiff (Dân Chủ, California) cũng cho biết các cuộc không kích là "không hợp hiến", đồng thời ông nói thêm rằng thông tin tình báo không ủng hộ cho lý thuyết rằng Iran có bom hạt nhân. Schiff cho biết "Chính quyền nên đến Quốc Hội... Có lý do để đưa vấn đề này ra Quốc Hội, và đó là, bạn muốn Quốc Hội chấp thuận, bạn muốn người dân Mỹ chấp thuận một hành động quan trọng như vậy có thể dẫn đến một cuộc chiến tranh bùng nổ lớn."
Đức Phật có dạy pháp phóng sinh hay không? Trong rất nhiều kinh, Đức Phật đã dạy là hãy yêu thương và đừng hại bất kỳ sinh mạng chúng sinh nào. Lời dạy đó cũng có thể hiểu là dạy phóng sinh. Đức Phật cũng đã quy định nhập hạ ba tháng mỗi năm trong mùa mưa để tránh giẫm đạp, vô ý sát sinh các loài côn trùng và mầm non cây trồng. Sau đây, chúng ta dò lại một số lời Đức Phật dạy rằng hãy yêu thương và đừng hại bất kỳ sinh mạng chúng sinh nào.
- Thánh chiến: Trump nói dội bom Iran để yêu thương, tạ ơn Chúa. - Cựu tổng thống Nga Medvedev: một số quốc gia suy tính gửi Iran đầu đạn hạt nhân để tự vệ - Mỹ năn nỉ TQ xin hãy nói với Iran đừng đóng cửa Eo biển Hormuz, nơi 20% dầu thế giới chở qua đây. - Cố vấn của Trump: Trump nói chờ 2 tuần sẽ quyết định dội bom hay không chỉ là cú lừa, vì Trump quyết định trước đó rồi, khi thấy Israel dội bom mà Iran phản ứng yếu kém.
(BILLINGS, Mont., ngày 23 tháng 6, APNews) – Một trong những ký ức đầu đời sâu đậm nhất của Layton Tallwhiteman là khi anh ngồi xem bản tin tại nhà chú ở Montana vào năm 2003, chứng kiến cảnh Hoa Kỳ dội bom Baghdad, mở màn cho cuộc chiến tại Iraq.
(Ngày 22 tháng 6, Reuters) – Sau các đợt không kích của Hoa Kỳ vào các cơ sở nguyên tử của Iran, tình hình hàng không khắp Trung Đông rơi vào hỗn loạn với hàng loạt chuyến bay bị hủy bỏ, khiến hàng chục ngàn hành khách bị mắc kẹt. Israel đã tạm thời mở lại không phận vào Chủ Nhật (22/6), và đang lên kế hoạch tăng cường các chuyến bay từ Thứ Hai (23/6) để hỗ trợ công dân và du khách quốc tế.
- Từ khi Trump lên ngôi ngày 20/1/2025 tới bây giờ, Trump chơi golf 37 lần, xài công quỹ gần 52 triệu đô - California: Thị trấn Boyle Heights kinh tế suy giảm vì ICE bố ráp di dân lậu, nhiều doanh nghiệp không tìm ra nhân viên - Đức Đạt Lai Lạt Ma có thể công bố về sự tái sinh của ngài vào ngày 2 tháng 7/2025 (2 ngày trước sinh nhật 90)
Donald Trump tuyên bố hôm thứ Bảy trên Truth Social Media rằng Hoa Kỳ đã hoàn thành một "cuộc tấn công rất thành công" vào các cơ sở nguyên tử ở Iran, bao gồm Fordow, Natanz và Isfahan.
một số hành động cụ thể cần được thực hiện: • Liên lạc với các đại diện Quốc hội để yêu cầu họ lên án việc bố trí quân đội tại các cộng đồng dân sự. • Tham gia mạng lưới phản ứng nhanh trong cộng đồng để bảo vệ các gia đình phải đối mặt với các cuộc đột kích trục xuất. • Tham dự các cuộc họp cộng đồng để phối hợp các nỗ lực kháng cự tại địa phương và hỗ trợ lẫn nhau. • Tham gia các cuộc biểu tình và tập hợp quần chúng. • Tham gia các chi nhánh PIVOT địa phương hoặc bắt đầu một chi nhánh để tổ chức cộng đồng. • Nói chuyện với các phần tử trong gia đình về những sự kiện đang xảy ra và sự quan trọng của chúng. Chia sẻ tuyên bố này cùng người quen biết và cùng ba người bạn cam kết hành động.
Theo lời kể của hai viên chức Israel từng trực tiếp tham gia các cuộc thảo luận với phía Hoa Kỳ, mọi chuyện bắt đầu từ ngày 4 tháng 2, Netanyahu đến Tòa Bạch Ốc lần đầu tiên kể từ khi Trump trở lại nắm quyền. Trong Phòng Nội Các, Netanyahu không vòng vo mà nhắc lại rằng Iran từng âm mưu ám sát Trump. Sau đó, ông trình chiếu một bộ slide công phu và chi tiết, phân tích rõ từng điểm, cho thấy Iran đang âm thầm từng bước vượt qua ngưỡng nguyên tử: trữ lượng uranium làm giàu ngày càng tăng, máy ly tâm ngày càng hiện đại. “Donald, ông coi coi,” Netanyahu nói, rồi ngưng một nhịp, nhìn thẳng vào mắt Trump: “Chúng ta phải can thiệp. Họ đang tăng tốc. Đâu thể cứ vậy mà trơ mắt ra nhìn Iran sở hữu vũ khí nguyên tử trong nhiệm kỳ của ông.”
Tôi kinh ngạc khi thấy mình có thể sống trong rất nhiều thế giới trong một ngày. Bật máy vi tính lên, tìm các bản tin thế giới và quê nhà qua Google, chọn tin và dịch. Từ những xúc động có khi rơi nước mắt khi đọc tin về nỗi đau đớn của những người đang sống dưới mưa bom như Palestine, Ukraine, cho tới nỗi lo lắng khi thấy các bản tin về Biển Đông và đói kém ở quê nhà, cho tới những sân si trong thế giới quyền lực ở Hoa Kỳ... Thời gian nghỉ tay, đọc những dòng thơ nơi này hay nơi kia, từ khắp thế giới, là hạnh phúc đời thường của tôi. Trong đó, tôi thường theo dõi những dòng chữ của nhà thơ Thiện Trí, người cũng là một thiền sư đang dạy Thiền thực nghiệm ở Nam California. Có khi tôi mở bản sách giấy ra xem, và có khi vào Facebook tìm đọc "Monk Thiện Trí."


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.