Hôm nay,  

Song ngữ: Right in birth and death / Tìm trong sống chết

03/08/202308:54:00(Xem: 3425)
blank

Song ngữ: Right in birth and death /

Tìm trong sống chết

 

Nguyễn Thế Đăng

 

Sống chết là vấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất, bởi vì đạo Phật không là gì khác hơn là con đường thoát khỏi sanh tử, dập tắt sanh tử khổ đau. Và trái ngược với sanh tử là Niết-bàn, tạm hiểu là thoát khỏi sanh tử.

 

Nói trực tiếp đến sống chết, ở đây chúng ta trích ra một đoạn đối thoại giữa Thiền sư Thiện Hội (?-900) đời thứ hai dòng thiền Vô Ngôn Thông, là thầy và trò là Thiền sư Vân Phong (?-956):

 

Thần Hội thường bảo Vân Phong: “Sống chết là việc lớn, cần phải thấu triệt”.

 

Sư Vân Phong hỏi: “Khi sống chết đến, làm sao tránh thoát?”.

 

Thần Hội đáp: “Hãy nắm lấy chỗ không sống chết mà tránh”.

 

Sư hỏi: “Thế nào là chỗ không sống chết?”.

 

Thần Hội đáp: “Chính trong sống chết hiểu lấy mới được”.

 

Sư Quảng Nghiêm (1122-1190) khi đến nghe Thiền sư Trí Thiền giảng ngữ lục của Thiền sư Tuyết Đậu, đến chuyện Đạo Ngô và Tiệm Nguyên đến điếu tang và đối đáp về việc sống chết, sư có sở đắc, liền hỏi:

 

“Một câu thoại đầu mà cổ nhân nói ấy, trong ấy lại có Lý (chân lý) hay không?”.

 

Thiền sư Trí Thiền nói: “Ngươi thể hội được Lý ấy chăng?”.

 

Sư Nghiêm hỏi: “Lý không có sanh tử là thế nào?”.

 

Thiền sư Trí Thiền đáp: “Chỉ chính trong sanh tử mới có được nó”.

 

Cả hai câu chuyện đều nêu ra một giải pháp có vẻ nghịch lý. Muốn tránh khỏi sống chết thì phải nắm lấy chỗ không sống chết, mà chỗ không sống chết này lại phải tìm trong chính chỗ sống chết. Chân lý “không có sanh tử” phải tìm chỉ chính trong sanh tử mới có. Tóm lại, muốn giải thoát khỏi sanh tử thì phải vào trong sanh tử.

 

 

“Chỗ không sống chết, chân lý không có sanh tử” này chính là tánh Không của sanh tử; tánh Không của sanh tử không có ngoài sanh tử, phải tìm trong chính sanh tử. Tánh Không của sanh tử là sự giải thoát cho sanh tử, và sự giải thoát này ở ngay trong chính sanh tử.

 

Bản tánh của sanh tử là tánh Không, cho nên muốn thoát khỏi những hiện tướng của sanh tử, phải tìm thấy bản tánh Không của những hiện tướng sanh tử ấy.

 

Kinh Duy-ma-cật, phẩm Nhập Pháp môn Bất nhị nói:

 

“Bồ-tát Na La Diên nói: ‘Thế gian và xuất thế gian là hai. Thế gian tánh Không, tức đó là xuất thế gian, trong đó không có đi vào không có ra khỏi, không tiến bộ,không lui sụt.Đó là vào pháp môn không hai’.

 

Bồ-tát Thiện Ý nói: ‘Sanh tử và Niết-bàn là hai. Nếu thấy tánh sanh tử, thì không có sanh tử, không có trói buộc, không có giải thoát, không sanh không diệt. Hiểu như vậy, đó là vào pháp môn không hai’.

 

“Tánh sanh tử thì không có sanh tử, không có trói buộc, không có giải thoát, không sanh không diệt” nghĩa là tánh sanh tử là Niết-bàn, và Niết-bàn ấy cũng là tánh Không. Như thế, muốn tránh khỏi sanh tử thì phải đi vào chính sanh tử để tìm thấy bản tánh của sanh tử, và bản tánh của sanh tử là Niết-bàn tánh Không.

 

Sự sống chết vô thường không chỉ nằm bên ngoài chúng ta, nơi những sự vật mà giác quan chúng ta dễ dàng tri giác. Sống chết nằm ngay nơi chúng ta, nơi tâm chúng ta: đó là sự sống chết của những tư tưởng tạo thành tâm chúng ta. Một tư tưởng cũng sống và chết. Nó sanh ra (sanh), tồn tại ở đó (trụ) và tiêu tan mất (diệt). Tâm chúng ta không có ngoài những tư tưởng, nên khi những tư tưởng sống chết thì tâm chúng ta cũng sống chết.

 

Đạo Phật thường hay nói, “Tất cả do tâm tạo”. Kinh Pháp cú, câu đầu tiên là: “Tâm dẫn đầu các pháp, tâm làm chủ, tâm tạo”. Thế giới, cuộc đời như mỗi người kinh nghiệm, là do tâm họ tạo ra. Thế giới và cuộc sống con người khác với thế giới và cuộc sống của con vật, sự khác biệt đó là sự khác biệt của tâm của con người và con vật.

 

Khi đạo Phật nói “Ba cõi duy chỉ là tâm”, “Tất cả do tâm tạo”, thì khi ba cõi là sống chết, là sanh tử có nghĩa là tâm là sống chết, là sanh tử. Sự sống chết, sanh tử của tâm đã tạo ra sự sống chết, sanh tử của thế giới và cuộc đời. Cho nên để thoát khỏi sự sống chết của thế giới và cuộc đời, phải thoát khỏi sự sống chết của tâm, hay sự sống chết của các tư tưởng.

 

Áp dụng điều hai vị Thiền sư ở trên đã chỉ dạy, chúng ta thấy rằng muốn tránh khỏi sự sống chết của những tư tưởng phải tìm trong chính sự sống chết của tư tưởng. Chúng ta phải tìm thấy và sống trong “chỗ không sống chết”, “chân lý không có sống chết” của chính những tư tưởng sống chết trong từng khoảnh khắc.

 

Ở đây chúng ta chỉ bàn đến một cách trong rất nhiều phương pháp để rõ tâm (biện tâm – chữ của vua Trần Thái Tông trong Khóa hư lục), bởi vì tất cả các tông phái, các pháp môn Phật giáo đều hướng đến mục đích này.

 

Quán chiếu một tư tưởng, chúng ta thấy nó không phải tự sanh ra, vì nếu nó tự sanh ra thì trước đã có nó. Nó cũng không sanh ra từ một tư tưởng khác, vì trước đó không có một tư tưởng khác nào cả. Nó cũng không sanh ra từ chính nó và cái khác cọng lại, vì đơn giản trước đó chưa có nó và cái khác. Nó cũng không phải tự nhiên sanh ra mà không có nhân duyên. Quán sát kỹ lưỡng, lập đi lập lại chúng ta sẽ thấy ra thật tánh của nó, như ngài Long Thọ đã nói trong Trung luận, phẩm thứ nhất, câu 3:

 

Các pháp chẳng tự sanh,

Chẳng từ cái khác sanh,

Chẳng cùng, chẳng không nhân, Thế nên biết Vô sanh.

 

Thật tánh của những tư tưởng là vô sanh, không thật có sanh ra. Thấy được như vậy, những tư tưởng không còn trói buộc, chúng tự giải thoát. Và khi những tư tưởng của chúng ta tự giải thoát thì thế giới sanh tử như chúng ta thấy cũng tự giải thoát.

 

Khi khảo sát kỹ lưỡng một tư tưởng, hay còn gọi là một tâm, sanh ra, chúng ta không thấy chỗ sanh ra của tư tưởng ấy, của tâm ấy. Khi tồn tại, nó trụ chỗ nào? Và khi diệt mất, nó diệt mất chỗ nào? Vì không thấy chỗ sanh, trụ, diệt của một tâm niệm, một tư tưởng, nên bằng thiền định và thiền quán chúng ta thấy nó sanh, trụ, diệt trong một khoảng không gian bao la đến vô hạn. Bởi thế, kinh thường nói “tâm như hư không”, nghĩa là khoảng không gian

 

cho tư tưởng hay tâm niệm sanh, trụ, diệt thì bao la không biên bờ như không gian, như hư không.

 

Không gian bao la vô hạn cho hoạt động sanh, trụ, diệt của tư tưởng hay của tâm được gọi là bản tâm hay bản tánh của tâm. Đó là nơi cho tâm sanh ra và tâm diệt mất. Đó là nền tảng vô hạn của tâm, không gian vô hạn cho tâm.

 

Như không gian, bản tánh của tâm, nền tảng của tâm thì vô hạn, không có hình tướng, màu sắc, không thuộc về nhận thức của giác quan và ý thức. Cái đó là tánh Không. Bản tánh của tâm là tánh Không của tâm.

 

Như không gian của bầu trời là nơi cho các đám mây tan biến, bầu trời là nơi giải thoát của các đám mây. Như đại dương là nơi cho các làn sóng tiêu tan, đại dương là nơi giải thoát của các làn sóng. Cũng thế không gian của tâm, tánh Không của tâm là nơi giải thoát cho các tư tưởng, các tâm, các phiền não.

 

Như không gian bầu trời nằm trong chính các đám mây, như đại dương nằm trong chính các làn sóng, tánh Không, sự giải thoát cho mọi loại tâm, nằm trong chính các tư tưởng, các phiền não. Tánh Không của tâm là “chỗ không sống chết” cho tất cả mọi tâm sống chết, là “lý không có sanh tử” cho mọi sanh tử của tâm, và tánh Không của tâm nằm ngay nơi từng tư tưởng, từng phiền não, từng mỗi loại tâm.

 

Tánh Không của tâm không phải là một hư không không có gì cả, nó có ánh sáng. Thậm chí ánh sáng là bản tánh của tâm, như trong Nikaya có nói: “Tâm này là sáng chói, nhưng tâm này bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào”.

 

(Kinh Tăng chi bộ, phẩm Búng ngón tay, phẩm Đặt Đúng hướng và Trong sáng)

 

Bản tánh của tâm là tánh Không và sáng chói, đó là nền tảng giải thoát cho mọi thứ tâm sanh tử và nó nằm ngay nơi mọi thứ tâm sanh tử.

 

Nguồn:

https://thuvienhoasen.org/a34514/tim-trong-song-chet-nguyen-the-dang-

 

.... o ....

 

Right in birth and death

 

Author: Nguyễn Thế Đăng

Translated by Nguyên Giác

 

 

Birth and death are the most significant challenges in human life. In Buddhism, the terms "birth" and "death" are frequently mentioned, as Buddhism is essentially a path to transcend birth and death and alleviate the suffering associated with them. And the opposite of birth and death is Nirvana, roughly understood as being liberated from the cycle of birth and death.

  

Speaking directly about birth and death, we quote a dialogue between Zen Master Thiện Hội (?-900), the second generation of the Vô Ngôn Thông Zen lineage, who was a teacher, and his student, Zen Master Vân Phong (?-956).

 

Thần Hội often said to Vân Phong, "Birth and death are significant matters that require thorough understanding."

Vân Phong asked, "How can we escape when birth and death come?"

"Hold on to the realm beyond birth and death," replied Thần Hội.

Vân Phong asked, "What is the place of neither birth nor death?"

"It is in the realm of birth and death that we must strive to comprehend it fully and embrace it," replied Thần Hội.

 

Listening to Zen Master Trí Thiền discuss Zen Master Tuyết Đậu's book of records and hearing about Đạo Ngô and Tiệm Nguyên attending the funeral and discussing birth and death, Monk Quảng Nghiêm (1122-1190) appeared to grasp something and subsequently posed a question.

 

"Is there a principle in that realm before words are formed, as the ancient masters have indicated?"

Zen master Trí Thiền asked, "Can you comprehend that principle?"

Quảng Nghiêm asked, "What is the principle of being without birth and without death?"

Zen master Trí Thiền replied, "It is only through birth and death that it can be attained."

 

Both stories present a seemingly paradoxical solution. To avoid birth and death, one must grasp the place of no birth and no death, and this place of no birth and no death must be sought in the very place of birth and death. The truth that "there is no birth and no death" must be found within birth and death themselves. In short, to be liberated from birth and death, one must enter birth and death.

  

This “place of no birth and no death, where the truth of no birth and no death is revealed” is the inherent emptiness of birth and death. The inherent emptiness of birth and death does not exist outside of the realm of birth and death; it is only found within birth and death itself. The inherent emptiness of birth and death is the key to freeing oneself from the cycle of birth and death. This liberation can be found within the very process of birth and death.

  

Because the nature of birth and death is inherent emptiness, to be liberated from the manifestations of birth and death, one must discover the inherent emptiness within those manifestations.

  

The Vimalakirti Sutra says in the chapter Nhập Pháp môn Bất nhị (Entering through the non-dual door), “The Bodhisattva Na La Diên says: 'The world and the transcendent world are two. The world has an inherent emptiness; thus, it is the transcendent world, in which there is no entry, no exit, no progress, or no regression. That means entering through the gate of non-dual dharma.'”

  

The Bodhisattva Thiện Ý said: "The cycles of birth and death and Nirvana are two. If you see the nature of birth and death, then there is no birth and death, no bondage, no liberation, no birth, and no death. Thus, it is entering the non-dual dharma."

 

"The nature of birth and death is truly neither birth nor death, neither bondage nor liberation, neither appearing nor disappearing"—this implies that the nature of birth and death is Nirvana and that Nirvana is also characterized by inherent emptiness. Thus, to avoid birth and death, one must go into birth and death to find the nature of birth and death, and the nature of birth and death is inherent emptiness that leads to Nirvana.

  

Not only do impermanent birth and death exist outside of us, but they are also present in things that are easily perceptible to our senses. Birth and death are inherent within us, within our minds; it is the birth and death of thoughts that constitute our minds. A thought also experiences birth and death. It is born (sinh), stays (trụ), and then perishes (diệt). Our mind does not exist apart from thoughts. Therefore, when thoughts undergo birth and death, our mind also undergoes birth and death.

  

Buddhism often says, "It's all mind-made." In the Dhammapada, the first sentence is: "All things are preceded, surpassed, and created by the mind." The world and life, as each person experiences them, are created by their minds. The world and human life are distinct from the world and lives of animals, and this distinction lies in the presence of a mind in humans that animals do not possess.

  

When Buddhism says that "the three realms are only mind" or says "All is created by the mind," then the three realms are life and cessation, birth and death; it means that mind is life and cessation, birth and death. Life and cessation, the birth and death of the mind, created life and cessation, the birth and death of the world, and life. So to be free from the life and cessation of the world and life, one must be free from the life and cessation of the mind, or the life and cessation of thoughts.

 

Applying the teachings of the two Zen masters mentioned above, we come to understand that in order to transcend the cycle of thoughts arising and ceasing, we must discover freedom within the very process of thoughts arising and ceasing. We must seek and embrace the state of "no birth and no death," where the concept of "truth" transcends the boundaries of birth and death, encompassing the ever-changing thoughts that arise and pass away in every moment.

  

Here, we will only discuss one of the many methods to see clearly the mind ("biện tâm"—words of King Tran Thai Tong in the book "Khóa Hư Lục"), because all Buddhist sects and dharma gates are focused on achieving this goal.

  

Observing a thought, we see that it is not self-generated, because if it were, it would have been there before. It also does not arise from another thought because there was no other thought before. Nor does it arise from itself and from the other combined, for it simply did not exist before and there was no other. It is also not naturally born without causes and conditions. Observing closely and continuously, we will see its true nature, as Nagarjuna said in the Madhyamaka, first chapter, third sentence:

 

Dharmas are not self-born,

nor are they born from another,

nor are they born together with another,

nor are they without a cause.

So, the dharmas are called "unborn."

 

The true nature of thoughts is unborn because there is no real birth. Seeing this, the thoughts no longer have the power to bind, and then the thoughts liberate themselves. And when our thoughts liberate themselves, the world of birth and death, as we see it, also liberates itself.

 

When we carefully observe a thought or a consciousness when it arises, we do not see the birthplace of that thought or that mind. When that thought exists, where does it stay? And when it disappears, where does it disappear? Because we do not see the birth, abiding, and cessation of a single thought, by meditation and contemplation we see it arising, remaining, and passing away in a vast to infinite space. Therefore, the sutras often say "mind is like space," meaning that the space for the mind or for a thought to arise, stay, and die is boundless, just like space, like the sky.

  

The vast, infinite space for the arising, abiding, and passing away of consciousness, or mind, is called the mind-nature or the nature of the mind. That is the realm in which the mind arises and passes away. That is the boundless realm of the mind, the infinite space of the mind.

  

Just as space, the nature of the mind is limitless. It is formless, colorless, and does not belong to the realm of senses or conscious awareness. That is the nature of emptiness. The nature of the mind is its inherent emptiness.

 

Just as the space of the sky is the place for the clouds to disappear, the sky is the place for the deliverance of clouds. Just as the ocean is the place for the waves to disappear, the ocean is the place for the deliverance of waves. Likewise, the space of the mind, i.e., the emptiness of the mind, is the place for the deliverance of thoughts, consciousnesses, and even defilement.

  

Like space, the sky lies within the clouds themselves, just as the ocean lies within the waves themselves. Emptiness, which is the liberation of all types of mind, lies within every thought and within every defilement. The emptiness of mind is the "realm of no birth and no death" for each mind of birth and death, the "principle of no birth and no death" for all birth and death of the mind, and the emptiness of mind lies right there, in every thought, in every defilement, and in every type of mind.

  

The emptiness of the mind is not a kind of nothingness; it has light. Even light is the nature of the mind, as stated in The Chapter on a Finger-Snap in Aṅguttara Nikaya: "Luminous, monks, is the mind. And it is defiled by incoming defilements." (AN 1.51–60 Sutta, translated by Thanissaro Bhikkhu)

 

The nature of the mind is inherent emptiness and luminosity; that nature is the liberating ground for all minds of birth and death, and it lies at the heart of all minds of birth and death.

 

.... o ....



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bạn tôi, tất cả, phần lớn đều là lính ráo. Chúng tôi không chỉ có chung những năm cầm súng, và một quãng đời tù mà còn chia chung rất nhiều … cố tật!. Hễ gặp nhau là uống, và câu chuyện trên bàn rượu trước sau gì rồi cũng xoay quanh kỷ niệm về đám chiến hữu hồi còn chinh chiến: những thằng đã chết, những đứa đang vất vưởng ở quê nhà, hay lưu lạc (đâu đó) nơi đất lạ xứ người.
Thống đốc Gavin Newsom hôm nay, thứ Năm, đã ban hành luật yêu cầu cư dân Californians đeo khẩu trang ở những nơi công cộng hay những nơi có nguy cơ lây bệnh, gồm khi đi mua sắm, dùng phương tiện giao thông công cộng hay tại những trung tâm y tế, sau nhiều ý kiến và dữ liệu lo ngại các ca nhiễm Coronavirus tăng trưởng do cư dân không tự nguyện đeo khẩu trang để ngăn ngừa.
Trong dịp Lễ Độc Lập (July 4) sắp tới đây, Sở Cảnh sát và Sở cứu hỏa Orange County Fire Authority sẽ làm việc chặt chẽ để hạn chế tình trạng đốt pháo lậu. Những ai đốt pháo lậu hoặc sở hữu pháo lậu sẽ bị phạt lên đến $1,000. Vì vậy, Thành phố kêu gọi sự hợp tác của cộng đồng để giảm số lượng biên phạt. Chỉ các loại pháo bông an toàn có đóng dấu của Tiểu bang California (California State Fire Marshal) được phép sử dụng vào ngày 4 tháng Bảy, từ 10:00 giờ sáng đến 10:00 giờ tối. Theo quy định về việc đốt pháo bông của Bộ luật Thành phố Garden Grove, chỉ được phép xài pháo bông an toàn tại những địa điểm tư gia cá nhân. Năm nay vì dịch COVID-19, nên những ‘block party’ sẽ không được phép tổ chức.
Thuốc chủng ngừa và trị cúm Covid-19 chưa ra mà dự đoán sẽ có đợt cúm thứ nhì đã thấy bắt đầu bùng phát. Sau đợt mở cửa rải rác ở khắp nơi trên Hoa Kỳ và toàn thế giới, 10 tiểu bang Hoa Kỳ đã có con số lây nhiễm tăng cao kỷ lục kể từ ngày đại dịch. Trong khi ấy, chính phủ lại muốn tuyên bố hết đại dịch để mở cửa toàn bộ đất nước hầu thúc đẩy kinh tế. Nhiều người đã không còn đeo khẩu trang và cố tình không tuân thủ luật cách ly. Bắc Kinh là nơi chứng kiến đợt cúm thứ hai bắt đầu với biện pháp gắt gao nhất là đóng cửa trở lại trường học, các chuyến bay và khuyên dân ở yên trong nhà. Lịch sử cũng lập lại.
Mấy hôm nay, cái chết của người da đen George Floyd ở Minneapolis, Huê kỳ, đã bổng chốc làm bùng lên phong trào dân chúng, da đen và cả da không đen, ủng hộ nạn nhơn đen, nổi lên, xuống đường ở nhiều thành phố lớn của Pháp, chống bạo hành và kỳ thị của cảnh sát. Omar Sy, da đen, sanh ở Trappes, ngoại ô Tây-Nam Paris (78), nghệ sĩ hài hước, diển viên điện ảnh, lên tiếng tuyên bố «Bạo hành cảnh sát là vấn đề của mọi người»! Là cơ hội bằng vàng để báo chí nhập cuộc. Báo chí Pháp hết 80% là khuynh tả, được chánh phủ tài trợ, (tùy theo số ấn phẩm bán được, từ 500 000 €/năm cho tới 6 000 000 €/năm), loan tin, bình luận, khai thác thị hiếu độc/thính giả để có đông độc giả, được tăng trợ cấp. Phong trào dân chúng nổi lên chống bạo hành và kỳ thị do cảnh sát gây ra, trên thực tế, đã không còn biên giới. Trước phản ứng của những người biểu tình trên thế giới, cảnh sát không còn là «bạn dân» nữa, mà đã trở thành hung thần! Chỉ có cảnh sát ở Tàu và Việt nam là không bị chỉ mặt vì họ là cảnh sát
Theo phân tích dữ liệu của CNN từ Đại Học Johns Hopkins, 10 tiểu bang của Hoa Kỳ đang chứng kiến số mức tang cao nhất trong 7 ngày các trường hợp bị lây nhiễm vi khuẩn corona mỗi ngày kể từ khi đại dịch bắt đầu từ nhiều tháng trước, theo CNN cho biết hôm 17 tháng 6 năm 2020. Dữ liệu gồm các trường hợp bị lây mới được tường trình bởi Đại Học Johns Hopkins tính tới Thứ Ba, 16 tháng 6. Các tiểu bang đang chứng kiến mức gia tăng cao kỷ lục là Alabama, Arizona, California, Florida, Nevada, North Carolina, Oklahoma, Oregon, South Carolina và Texas. Texas cũng đã báo cáo số người vào bệnh viện vì Covid-19 cao kỷ lục hôm Thứ Hai, với 2,326 người. Trong khi một số chính trị gia đã quy kết các số trường hợp cao hơn vì việc thử nghiệm tốt hơn, thì các đợt tăng gần đây đang vượt xa sự gia tăng các thử nghiệm, theo Tiến Sĩ Ezekiel Emanuel, chủ tịch của Phân Khoa Chính Sách Y Tế và Đạo Đức Y Tế tại Đại Học Pennsylvania cho biết.
Cựu cố vấn an ninh quốc gia John Bolton đã san bằng một lời buộc tội tuyệt vời đối với ông chủ cũ của mình, tuyên bố trong cuốn sách mới của ông rằng Tổng Thống Donald Trump đã yêu cầu người đồng nhiệm Trung Quốc, Tập Cận Bình, giúp ông giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 2020, theo một bản sao của cuốn sách mà CNN có được hôm Thứ Tư, 17 tháng 6, cho biết. Một tương tác đáng chú ý được mô tả bởi Bolton là cuộc gặp giữa hai nhà lãnh đạo tại Hội Nghị Thượng Đỉnh G-20 ở Osaka, Nhật Bản, vào tháng 6 năm 2019, nơi Tổng Thống Mỹ đã chuyển một cách ngoạn mục cuộc trò chuyện sang cuộc bầu cử năm 2020 sắp tới.
Hai Facebookers Huỳnh Anh Khoa và Nguyễn Đăng Thường đã bị công an CSVN bắt tại Sài Gòn “với cáo buộc tinh nghi liên quan đến chính trị,” theo bản tin của Đài Á Châu Tự Do (RFA) cho biết hôm 17 tháng 6 năm 2020.
Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ nói Việt Nam vẫn giấu giếm các nguồn tài chánh thu chi, theo bản tin của Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA) cho biết hôm 17 tháng 6 năm 2020.
Theo thông cáo báo chí ngày 17 tháng 6 năm 2020, Dân Biểu Harley Rouda cho biết 19 học sinh thuộc Quận Cam vùng ven biển do ông đề cử đã được nhận vào các Học Viện Quân Sự Hoa Kỳ trong năm 2020. Trong số này có một em học sinh gốc Việt là Nam Trần của trường Pacifica High School, được vinh dự nhận vào Học Viện Hải Quân Hoa Kỳ. Trong bài luận văn trong hồ sơ xét duyệt, Nam Trần cho biết một trong những động lực thúc đẩy em nộp đơn xin vào Học Viện Hải Quân Hoa Kỳ đến từ gia đình. Cha em và ông của em là những người Việt Tị Nạn, do ông của em là một sĩ quan thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. CSVN có chính sách “ba đời lý lịch”, ngăn cản những thành viên trong gia đình em theo đuổi những sự nghiệp mơ ước của mình tại Việt Nam. Đất nước Hoa Kỳ đã khiến cho giấc mơ trở thành một sĩ quan hải quân của em trở thành hiện thực. Nam cảm thấy có bổn phận đền đáp lại những gì mà đất nước Hoa Kỳ đã dành cho gia đình mình.
“Đã đến lúc tất cả mọi người trong cộng đồng điền hoàn tất cuộc thống kê dân số quan trọng này. Điều cấp thiết là cư dân đứng lên, đưa ra tiếng nói của họ, và được đếm vào thống kê đầy đủ. Rất nhiều chương trình và dịch vụ trực tiếp ảnh hưởng đến phúc lợi và chất lượng cuộc sống của cộng đồng chúng ta dựa vào toàn bộ hoặc một phần dữ liệu thống kê dân số này. Đừng để 10 năm nữa trôi qua mà vẫn không thu thập được các nguồn lực và đại diện cần thiết cho gia đình và khu vực của quý vị,” Giám Sát Viên Quận Los Angeles Kathryn Barger lên tiếng.
Thượng Nghị Sĩ Thomas J. Umberg (D-Santa Ana) cùng các Dân Biểu Tom Daly (D-Anaheim), Dân Biểu Tyler Diệp (R-Westminster) và Dân Biểu Kansen Chu (D-San Jose) đã giới thiệu Nghị Quyết SCR 59 để công nhận ngày 19 tháng Sáu năm 2020 là ngày Cựu Chiến Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, kỷ niệm sự hy sinh dũng cảm và đóng góp to lớn của các cựu chiến binh người Mỹ gốc Việt trong chiến tranh Việt Nam cũng như tại California cũng như trên toàn thế giới. Thượng Nghị Sĩ Tom Umberg phát biểu:"Là một cựu quân nhân, tôi rất vinh dự là tác giả giới thiệu Nghị Quyết 59 công nhận và vinh danh tất cả người lính thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và các cựu quân nhân Mỹ gốc Việt đang sinh sống tại Quận Cam. Hơn thế nữa, chúng ta cùng nhau kỷ niểm ngày 19 tháng 6 này cho những người lính đã chiến đấu anh dũng để giành độc lập trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Những con người anh dũng này đã phục vụ hết mình cho quốc gia Việt Nam Cộng Hòa, và ngày nay, nhiều người đang trở thành cư dân của tiểu bang C
Cuộc khủng hoảng do virút corona đang tạo ra một môi trường toàn cầu nhiều cạnh tranh hơn, với sự "đối đầu" phát triển nhanh hơn là "hợp tác". Liên Minh Âu Châu chúng ta phải đối mặt với những vùng biển khắc nghiệt hơn và có nguy cơ bị cuốn vào những dòng chảy chéo chiều của các cường quốc đang đòi chúng ta chọn phe rõ rệt. Những thứ được coi là kỹ thuật và không phải là "chính trị cao", chẳng hạn như đầu tư và thương mại, công nghệ và tiền tệ, nay là thành phần của một cuộc cạnh tranh công khai, hoặc thậm chí là đối đầu. Những thứ mà người ta có thể dựa vào một cách vững chắc, như dữ kiện và khoa học, hiện đang bị thách thức và cuốn vào trận chiến của những bài tường thuật, khuếch đại thêm qua những phương tiện truyền thông xã hội.
Tại Tượng Đài 81 tử sĩ Nhảy Dù trong khu Westminster Memorial Park (bên cạnh tượng đài Thuyền Nhân). Vào lúc 1 giờ trưa Thứ Ba ngày 16 tháng 6 năm 2020, Nhân Ngày Quân Lực 19 tháng 6 Gia Đình Mũ Đỏ Nam California do Mũ Đỏ Hoàng Tấn Kỳ làm Hội Trưởng, đã tổ chức lễ đặt vòng hoa tưởng niệm 81 tử sĩ Nhảy Dù thuộc Đại Đội 72/Tiểu Đoàn 7 đã vị quốc vong thân trên chuyến bay định mệnh C123B vào ngày 11 Tháng Mười Hai, 1965, tại Tuy Hòa, Việt Nam.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.