Hôm nay,  

Song ngữ: Right in birth and death / Tìm trong sống chết

03/08/202308:54:00(Xem: 3404)
blank

Song ngữ: Right in birth and death /

Tìm trong sống chết

 

Nguyễn Thế Đăng

 

Sống chết là vấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất, bởi vì đạo Phật không là gì khác hơn là con đường thoát khỏi sanh tử, dập tắt sanh tử khổ đau. Và trái ngược với sanh tử là Niết-bàn, tạm hiểu là thoát khỏi sanh tử.

 

Nói trực tiếp đến sống chết, ở đây chúng ta trích ra một đoạn đối thoại giữa Thiền sư Thiện Hội (?-900) đời thứ hai dòng thiền Vô Ngôn Thông, là thầy và trò là Thiền sư Vân Phong (?-956):

 

Thần Hội thường bảo Vân Phong: “Sống chết là việc lớn, cần phải thấu triệt”.

 

Sư Vân Phong hỏi: “Khi sống chết đến, làm sao tránh thoát?”.

 

Thần Hội đáp: “Hãy nắm lấy chỗ không sống chết mà tránh”.

 

Sư hỏi: “Thế nào là chỗ không sống chết?”.

 

Thần Hội đáp: “Chính trong sống chết hiểu lấy mới được”.

 

Sư Quảng Nghiêm (1122-1190) khi đến nghe Thiền sư Trí Thiền giảng ngữ lục của Thiền sư Tuyết Đậu, đến chuyện Đạo Ngô và Tiệm Nguyên đến điếu tang và đối đáp về việc sống chết, sư có sở đắc, liền hỏi:

 

“Một câu thoại đầu mà cổ nhân nói ấy, trong ấy lại có Lý (chân lý) hay không?”.

 

Thiền sư Trí Thiền nói: “Ngươi thể hội được Lý ấy chăng?”.

 

Sư Nghiêm hỏi: “Lý không có sanh tử là thế nào?”.

 

Thiền sư Trí Thiền đáp: “Chỉ chính trong sanh tử mới có được nó”.

 

Cả hai câu chuyện đều nêu ra một giải pháp có vẻ nghịch lý. Muốn tránh khỏi sống chết thì phải nắm lấy chỗ không sống chết, mà chỗ không sống chết này lại phải tìm trong chính chỗ sống chết. Chân lý “không có sanh tử” phải tìm chỉ chính trong sanh tử mới có. Tóm lại, muốn giải thoát khỏi sanh tử thì phải vào trong sanh tử.

 

 

“Chỗ không sống chết, chân lý không có sanh tử” này chính là tánh Không của sanh tử; tánh Không của sanh tử không có ngoài sanh tử, phải tìm trong chính sanh tử. Tánh Không của sanh tử là sự giải thoát cho sanh tử, và sự giải thoát này ở ngay trong chính sanh tử.

 

Bản tánh của sanh tử là tánh Không, cho nên muốn thoát khỏi những hiện tướng của sanh tử, phải tìm thấy bản tánh Không của những hiện tướng sanh tử ấy.

 

Kinh Duy-ma-cật, phẩm Nhập Pháp môn Bất nhị nói:

 

“Bồ-tát Na La Diên nói: ‘Thế gian và xuất thế gian là hai. Thế gian tánh Không, tức đó là xuất thế gian, trong đó không có đi vào không có ra khỏi, không tiến bộ,không lui sụt.Đó là vào pháp môn không hai’.

 

Bồ-tát Thiện Ý nói: ‘Sanh tử và Niết-bàn là hai. Nếu thấy tánh sanh tử, thì không có sanh tử, không có trói buộc, không có giải thoát, không sanh không diệt. Hiểu như vậy, đó là vào pháp môn không hai’.

 

“Tánh sanh tử thì không có sanh tử, không có trói buộc, không có giải thoát, không sanh không diệt” nghĩa là tánh sanh tử là Niết-bàn, và Niết-bàn ấy cũng là tánh Không. Như thế, muốn tránh khỏi sanh tử thì phải đi vào chính sanh tử để tìm thấy bản tánh của sanh tử, và bản tánh của sanh tử là Niết-bàn tánh Không.

 

Sự sống chết vô thường không chỉ nằm bên ngoài chúng ta, nơi những sự vật mà giác quan chúng ta dễ dàng tri giác. Sống chết nằm ngay nơi chúng ta, nơi tâm chúng ta: đó là sự sống chết của những tư tưởng tạo thành tâm chúng ta. Một tư tưởng cũng sống và chết. Nó sanh ra (sanh), tồn tại ở đó (trụ) và tiêu tan mất (diệt). Tâm chúng ta không có ngoài những tư tưởng, nên khi những tư tưởng sống chết thì tâm chúng ta cũng sống chết.

 

Đạo Phật thường hay nói, “Tất cả do tâm tạo”. Kinh Pháp cú, câu đầu tiên là: “Tâm dẫn đầu các pháp, tâm làm chủ, tâm tạo”. Thế giới, cuộc đời như mỗi người kinh nghiệm, là do tâm họ tạo ra. Thế giới và cuộc sống con người khác với thế giới và cuộc sống của con vật, sự khác biệt đó là sự khác biệt của tâm của con người và con vật.

 

Khi đạo Phật nói “Ba cõi duy chỉ là tâm”, “Tất cả do tâm tạo”, thì khi ba cõi là sống chết, là sanh tử có nghĩa là tâm là sống chết, là sanh tử. Sự sống chết, sanh tử của tâm đã tạo ra sự sống chết, sanh tử của thế giới và cuộc đời. Cho nên để thoát khỏi sự sống chết của thế giới và cuộc đời, phải thoát khỏi sự sống chết của tâm, hay sự sống chết của các tư tưởng.

 

Áp dụng điều hai vị Thiền sư ở trên đã chỉ dạy, chúng ta thấy rằng muốn tránh khỏi sự sống chết của những tư tưởng phải tìm trong chính sự sống chết của tư tưởng. Chúng ta phải tìm thấy và sống trong “chỗ không sống chết”, “chân lý không có sống chết” của chính những tư tưởng sống chết trong từng khoảnh khắc.

 

Ở đây chúng ta chỉ bàn đến một cách trong rất nhiều phương pháp để rõ tâm (biện tâm – chữ của vua Trần Thái Tông trong Khóa hư lục), bởi vì tất cả các tông phái, các pháp môn Phật giáo đều hướng đến mục đích này.

 

Quán chiếu một tư tưởng, chúng ta thấy nó không phải tự sanh ra, vì nếu nó tự sanh ra thì trước đã có nó. Nó cũng không sanh ra từ một tư tưởng khác, vì trước đó không có một tư tưởng khác nào cả. Nó cũng không sanh ra từ chính nó và cái khác cọng lại, vì đơn giản trước đó chưa có nó và cái khác. Nó cũng không phải tự nhiên sanh ra mà không có nhân duyên. Quán sát kỹ lưỡng, lập đi lập lại chúng ta sẽ thấy ra thật tánh của nó, như ngài Long Thọ đã nói trong Trung luận, phẩm thứ nhất, câu 3:

 

Các pháp chẳng tự sanh,

Chẳng từ cái khác sanh,

Chẳng cùng, chẳng không nhân, Thế nên biết Vô sanh.

 

Thật tánh của những tư tưởng là vô sanh, không thật có sanh ra. Thấy được như vậy, những tư tưởng không còn trói buộc, chúng tự giải thoát. Và khi những tư tưởng của chúng ta tự giải thoát thì thế giới sanh tử như chúng ta thấy cũng tự giải thoát.

 

Khi khảo sát kỹ lưỡng một tư tưởng, hay còn gọi là một tâm, sanh ra, chúng ta không thấy chỗ sanh ra của tư tưởng ấy, của tâm ấy. Khi tồn tại, nó trụ chỗ nào? Và khi diệt mất, nó diệt mất chỗ nào? Vì không thấy chỗ sanh, trụ, diệt của một tâm niệm, một tư tưởng, nên bằng thiền định và thiền quán chúng ta thấy nó sanh, trụ, diệt trong một khoảng không gian bao la đến vô hạn. Bởi thế, kinh thường nói “tâm như hư không”, nghĩa là khoảng không gian

 

cho tư tưởng hay tâm niệm sanh, trụ, diệt thì bao la không biên bờ như không gian, như hư không.

 

Không gian bao la vô hạn cho hoạt động sanh, trụ, diệt của tư tưởng hay của tâm được gọi là bản tâm hay bản tánh của tâm. Đó là nơi cho tâm sanh ra và tâm diệt mất. Đó là nền tảng vô hạn của tâm, không gian vô hạn cho tâm.

 

Như không gian, bản tánh của tâm, nền tảng của tâm thì vô hạn, không có hình tướng, màu sắc, không thuộc về nhận thức của giác quan và ý thức. Cái đó là tánh Không. Bản tánh của tâm là tánh Không của tâm.

 

Như không gian của bầu trời là nơi cho các đám mây tan biến, bầu trời là nơi giải thoát của các đám mây. Như đại dương là nơi cho các làn sóng tiêu tan, đại dương là nơi giải thoát của các làn sóng. Cũng thế không gian của tâm, tánh Không của tâm là nơi giải thoát cho các tư tưởng, các tâm, các phiền não.

 

Như không gian bầu trời nằm trong chính các đám mây, như đại dương nằm trong chính các làn sóng, tánh Không, sự giải thoát cho mọi loại tâm, nằm trong chính các tư tưởng, các phiền não. Tánh Không của tâm là “chỗ không sống chết” cho tất cả mọi tâm sống chết, là “lý không có sanh tử” cho mọi sanh tử của tâm, và tánh Không của tâm nằm ngay nơi từng tư tưởng, từng phiền não, từng mỗi loại tâm.

 

Tánh Không của tâm không phải là một hư không không có gì cả, nó có ánh sáng. Thậm chí ánh sáng là bản tánh của tâm, như trong Nikaya có nói: “Tâm này là sáng chói, nhưng tâm này bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào”.

 

(Kinh Tăng chi bộ, phẩm Búng ngón tay, phẩm Đặt Đúng hướng và Trong sáng)

 

Bản tánh của tâm là tánh Không và sáng chói, đó là nền tảng giải thoát cho mọi thứ tâm sanh tử và nó nằm ngay nơi mọi thứ tâm sanh tử.

 

Nguồn:

https://thuvienhoasen.org/a34514/tim-trong-song-chet-nguyen-the-dang-

 

.... o ....

 

Right in birth and death

 

Author: Nguyễn Thế Đăng

Translated by Nguyên Giác

 

 

Birth and death are the most significant challenges in human life. In Buddhism, the terms "birth" and "death" are frequently mentioned, as Buddhism is essentially a path to transcend birth and death and alleviate the suffering associated with them. And the opposite of birth and death is Nirvana, roughly understood as being liberated from the cycle of birth and death.

  

Speaking directly about birth and death, we quote a dialogue between Zen Master Thiện Hội (?-900), the second generation of the Vô Ngôn Thông Zen lineage, who was a teacher, and his student, Zen Master Vân Phong (?-956).

 

Thần Hội often said to Vân Phong, "Birth and death are significant matters that require thorough understanding."

Vân Phong asked, "How can we escape when birth and death come?"

"Hold on to the realm beyond birth and death," replied Thần Hội.

Vân Phong asked, "What is the place of neither birth nor death?"

"It is in the realm of birth and death that we must strive to comprehend it fully and embrace it," replied Thần Hội.

 

Listening to Zen Master Trí Thiền discuss Zen Master Tuyết Đậu's book of records and hearing about Đạo Ngô and Tiệm Nguyên attending the funeral and discussing birth and death, Monk Quảng Nghiêm (1122-1190) appeared to grasp something and subsequently posed a question.

 

"Is there a principle in that realm before words are formed, as the ancient masters have indicated?"

Zen master Trí Thiền asked, "Can you comprehend that principle?"

Quảng Nghiêm asked, "What is the principle of being without birth and without death?"

Zen master Trí Thiền replied, "It is only through birth and death that it can be attained."

 

Both stories present a seemingly paradoxical solution. To avoid birth and death, one must grasp the place of no birth and no death, and this place of no birth and no death must be sought in the very place of birth and death. The truth that "there is no birth and no death" must be found within birth and death themselves. In short, to be liberated from birth and death, one must enter birth and death.

  

This “place of no birth and no death, where the truth of no birth and no death is revealed” is the inherent emptiness of birth and death. The inherent emptiness of birth and death does not exist outside of the realm of birth and death; it is only found within birth and death itself. The inherent emptiness of birth and death is the key to freeing oneself from the cycle of birth and death. This liberation can be found within the very process of birth and death.

  

Because the nature of birth and death is inherent emptiness, to be liberated from the manifestations of birth and death, one must discover the inherent emptiness within those manifestations.

  

The Vimalakirti Sutra says in the chapter Nhập Pháp môn Bất nhị (Entering through the non-dual door), “The Bodhisattva Na La Diên says: 'The world and the transcendent world are two. The world has an inherent emptiness; thus, it is the transcendent world, in which there is no entry, no exit, no progress, or no regression. That means entering through the gate of non-dual dharma.'”

  

The Bodhisattva Thiện Ý said: "The cycles of birth and death and Nirvana are two. If you see the nature of birth and death, then there is no birth and death, no bondage, no liberation, no birth, and no death. Thus, it is entering the non-dual dharma."

 

"The nature of birth and death is truly neither birth nor death, neither bondage nor liberation, neither appearing nor disappearing"—this implies that the nature of birth and death is Nirvana and that Nirvana is also characterized by inherent emptiness. Thus, to avoid birth and death, one must go into birth and death to find the nature of birth and death, and the nature of birth and death is inherent emptiness that leads to Nirvana.

  

Not only do impermanent birth and death exist outside of us, but they are also present in things that are easily perceptible to our senses. Birth and death are inherent within us, within our minds; it is the birth and death of thoughts that constitute our minds. A thought also experiences birth and death. It is born (sinh), stays (trụ), and then perishes (diệt). Our mind does not exist apart from thoughts. Therefore, when thoughts undergo birth and death, our mind also undergoes birth and death.

  

Buddhism often says, "It's all mind-made." In the Dhammapada, the first sentence is: "All things are preceded, surpassed, and created by the mind." The world and life, as each person experiences them, are created by their minds. The world and human life are distinct from the world and lives of animals, and this distinction lies in the presence of a mind in humans that animals do not possess.

  

When Buddhism says that "the three realms are only mind" or says "All is created by the mind," then the three realms are life and cessation, birth and death; it means that mind is life and cessation, birth and death. Life and cessation, the birth and death of the mind, created life and cessation, the birth and death of the world, and life. So to be free from the life and cessation of the world and life, one must be free from the life and cessation of the mind, or the life and cessation of thoughts.

 

Applying the teachings of the two Zen masters mentioned above, we come to understand that in order to transcend the cycle of thoughts arising and ceasing, we must discover freedom within the very process of thoughts arising and ceasing. We must seek and embrace the state of "no birth and no death," where the concept of "truth" transcends the boundaries of birth and death, encompassing the ever-changing thoughts that arise and pass away in every moment.

  

Here, we will only discuss one of the many methods to see clearly the mind ("biện tâm"—words of King Tran Thai Tong in the book "Khóa Hư Lục"), because all Buddhist sects and dharma gates are focused on achieving this goal.

  

Observing a thought, we see that it is not self-generated, because if it were, it would have been there before. It also does not arise from another thought because there was no other thought before. Nor does it arise from itself and from the other combined, for it simply did not exist before and there was no other. It is also not naturally born without causes and conditions. Observing closely and continuously, we will see its true nature, as Nagarjuna said in the Madhyamaka, first chapter, third sentence:

 

Dharmas are not self-born,

nor are they born from another,

nor are they born together with another,

nor are they without a cause.

So, the dharmas are called "unborn."

 

The true nature of thoughts is unborn because there is no real birth. Seeing this, the thoughts no longer have the power to bind, and then the thoughts liberate themselves. And when our thoughts liberate themselves, the world of birth and death, as we see it, also liberates itself.

 

When we carefully observe a thought or a consciousness when it arises, we do not see the birthplace of that thought or that mind. When that thought exists, where does it stay? And when it disappears, where does it disappear? Because we do not see the birth, abiding, and cessation of a single thought, by meditation and contemplation we see it arising, remaining, and passing away in a vast to infinite space. Therefore, the sutras often say "mind is like space," meaning that the space for the mind or for a thought to arise, stay, and die is boundless, just like space, like the sky.

  

The vast, infinite space for the arising, abiding, and passing away of consciousness, or mind, is called the mind-nature or the nature of the mind. That is the realm in which the mind arises and passes away. That is the boundless realm of the mind, the infinite space of the mind.

  

Just as space, the nature of the mind is limitless. It is formless, colorless, and does not belong to the realm of senses or conscious awareness. That is the nature of emptiness. The nature of the mind is its inherent emptiness.

 

Just as the space of the sky is the place for the clouds to disappear, the sky is the place for the deliverance of clouds. Just as the ocean is the place for the waves to disappear, the ocean is the place for the deliverance of waves. Likewise, the space of the mind, i.e., the emptiness of the mind, is the place for the deliverance of thoughts, consciousnesses, and even defilement.

  

Like space, the sky lies within the clouds themselves, just as the ocean lies within the waves themselves. Emptiness, which is the liberation of all types of mind, lies within every thought and within every defilement. The emptiness of mind is the "realm of no birth and no death" for each mind of birth and death, the "principle of no birth and no death" for all birth and death of the mind, and the emptiness of mind lies right there, in every thought, in every defilement, and in every type of mind.

  

The emptiness of the mind is not a kind of nothingness; it has light. Even light is the nature of the mind, as stated in The Chapter on a Finger-Snap in Aṅguttara Nikaya: "Luminous, monks, is the mind. And it is defiled by incoming defilements." (AN 1.51–60 Sutta, translated by Thanissaro Bhikkhu)

 

The nature of the mind is inherent emptiness and luminosity; that nature is the liberating ground for all minds of birth and death, and it lies at the heart of all minds of birth and death.

 

.... o ....



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Phó Tổng Thống Mike Pence, lãnh đạo lực lượng chống vi khuẩn corona của chính phủ, đang công khai vẽ một bức tranh màu hồng về đại dịch thông qua những lời nói và hành động của mình trong bối cảnh Tổng Thống Donald Trump thúc đẩy mở lại đất nước và tiếp tục vận động tranh cử, theo CNN cho biết hôm Thứ Ba, 16 tháng 6. Nhưng bất chấp những nỗ lực của chính phủ để tuyên bố đại dịch đã qua, 18 tiểu bang hiện đang trải qua sự gia tăng trong các trường hợp bị lây bệnh. Và các viên chức y tế đã kêu gọi người Mỹ thực hiện các hướng dẫn của lực lượng chống vi khuẩn corona - bao gồm đeo khẩu trang và giữ khoảng cách xã hội - để làm chậm sự lây lan, và một mô hình chính được Bạch Ốc sử dụng hiện đang dự đoán hơn 200,000 người chết vào tháng 10 năm nay. "Chúng ta có thể hoàn tất với đại dịch, nhưng đại dịch không chấm dứt với chúng ta," theo Tiến sĩ Ashish Jha, giám đốc Viện Sức Khỏe Toàn Cầu Harvard, cho biết trong Cuộc Hội Thoại STAT hôm Thứ Ba.
Tổng Thống Trump hôm Thứ Ba, 16 tháng 6, đã ký ban hành sắc lệnh hành pháp về cải tổ cảnh sát và nói rằng “các vụ làm nghẹt thở sẽ bị cấm ngoại trừ nếu mạng sống của cảnh sát viên gặp nguy cơ” trong khi quốc gia này quay cuồng với cái chết của George Floyd trong sự giam giữ của Ty Cảnh Sát Minneapolis và tình trạng bất ổn tiếp theo - đã gây ra những lời kêu gọi thay đổi chính sách trên toàn quốc quyết liệt như tháo dỡ toàn bộ các bộ phận. Tổng Thống đã đưa ra những bình luận tại Vườn Hồng, trong đó ông đánh một giai điệu hòa giải đồng thời bày tỏ sự ủng hộ mạnh mẽ đối với cảnh sát trước khi chính thức ký lệnh, mà ông cho thấy là thúc đẩy "các tiêu chuẩn chuyên nghiệp cao nhất.” Ông cũng nói, “Những tiêu chuẩn này sẽ cao và mạnh như có trên Trái Đất.”
John Bolton sắp xuất bản một cuốn sách nói về thời gian làm cố vấn an ninh quốc gia của Tổng Thống Donald Trump, và đã ghi âm một cuộc phỏng vấn độc quyền với ABC News. Nhưng vào Thứ Ba, 16 tháng 6 Bộ Tư Pháp đã đệ đơn kiện Bolton, tìm cách ít nhất là tạm thời ngừng phát hành cuốn hồi ký của ông, “The Room Where It Happened,” theo thông tin công khai về vụ này cho biết, sẽ cung cấp một cuốn sách khá gay gắt về cách mà Trump thực hiện chính sách đối ngoại của mình. Mấu chốt của vụ kiện của Bộ Tư Pháp là Bolton không hoàn tất quy trình sàng lọc trước khi xuất bản để sàng lọc thông tin mật và rằng ông đã vi phạm thỏa thuận không tiết lộ. Nhưng luật sư của Bolton, Charles Cooper, đã viết trên tờ Wall Street Journal gần đây rằng một bản đánh giá mở rộng đã được hoàn thành và những tuyên bố rằng cuốn hồi ký chứa bí mật quốc gia là “nỗ lực trắng trợn dùng lý do an ninh quốc gia để kiểm duyệt ông Bolton, trong việc vi phạm quyền lập hiến của mình để nói đến các vấn đề nội dung công khai
Câu hỏi đang đặt ra ở Biển Đông là Trung Quốc có âm mưu gì khi bất ngờ gia tăng đe dọa và phủ nhận quyền chủ quyền của các nước có tranh chấp lãnh thổ với Bắc Kinh gồm Việt Nam, Phi Luật Tân, Nam Dương, Mã Lai và Brunei, vào lúc cả thế giới lo phòng, chống dịch nạn Vũ Hán, xuất phát từ Trung Quốc từ đầu năm 2020 (Coronavirus disease 2019 (COVID-19). Để trả lời cho thắc mắc này, cũng như liệu tranh chấp giữa Mỹ và Trung Quốc ở Biển Đông có đưa đên nguy cơ chiến tranh hay không, xin mời bạn đọc theo dõi nội dung Cuộc phỏng vấn của tôi với Giáo sư ngoại hạng (Professor Emeritus), Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng, người từng giảng dậy nhiều năm về Quan hệ Quốc tế tại Đại học George Mason, gần Thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Giáo sư Hùng là Học giả cao cấp bất thường trú của Trung tâm nghiên cứu Chiến lươc và quan hệ Quốc tế ở Washington, D.C. (Center for Strategic and International Studies, CSIS). Ngoài ra ông còn là Học giả vãng lai hai niên khóa 2015-2016 tại viện nghiên cứu nổi tiếng ISEAS-Yusof Is
Mỗi lần tôi tới thăm, Dì hay kể chuyện Dì vui đùa bên con cái. Chuyện các con hay chọc Dì khi Dì nói giỡn. Các con hay kêu, “Mẹ à!” Cái chữ à, Dì kéo thật dài. Những ai gặp Dì lần đầu sẽ không biết những ngổn ngang niềm riêng Dì chôn chặt trong lòng. Dì hay nói, “Sao bây giờ Dì quên nhiều lắm.” Ai lớn tuổi mà lại không hay quên. Tôi chưa lớn tuổi mà cũng hay quên nè. Dì không hẳn bị lẩn. Phần nhiều là bị mất thăng bằng về tình cảm. Dì hay nhắc chuyện cũ với người thân, nhất là Bà Ngoại và con trưởng của Dì. Rồi có lúc, Dì nói chuyện như thể người Mẹ đã đi xa mười mấy năm của Dì vẫn còn sống.
Các binh sĩ Ấn Độ và Trung Quốc đã đụng độ ở biên giới qua đêm, khiến 20 binh sĩ Ấn Độ thiệt mạng và đánh dấu thương vong đầu tiên trong cuộc xung đột giữa hai cường quốc trong nhiều thập niên. “Quân đội Ấn Độ và Trung Quốc đã thảnh thơi tại khu vực Galwan, nơi họ đã đụng độ trước đó vào đêm 15/16 tháng 6 năm 2020,” theo Đại Tá Aman Anand, phát ngôn viên của quân đội Ấn Độ, nói với ABC News. “17 binh sĩ Ấn Độ bị thương nặng trong lúc thi hành nhiệm vụ tại vị trí lộ thiên và chịu nhiệt độ dưới 0 ở địa hình cao độ đã gục ngã trước những tổn thương của họ, khiến tổng số người thiệt mạng trong cuộc đụng độ lên đến 20.”
Quân đội của Bắc Hàn cảnh báo họ đã sẵn sàng vào khu vực phi quân sự chia cắt hai miền Triều Tiên. Mối đe dọa này một phần là để đáp trả các nhóm đào ngũ từ Bắc xuống miền Nam gửi tài liệu tuyên truyền về phía bắc. Cuối tuần qua, Kim Yo-jong, em gái của nhà lãnh đạo Bắc Hàn Kim Jong-un, cho biết cô đã ra lệnh cho quân đội chuẩn bị bước đi này. Và quân đội bây giờ nói rằng họ đã sẵn sàng "biến chiến tuyến thành một pháo đài và nâng cao cảnh giác quân sự."
Tàu Hải Dương 4 của Trung Cộng đã vào vùng biển VN chỉ cách đảo Phú Quý chừng 182 hải lý hôm Thứ Ba, 16 tháng 6 năm 2020, theo bản tin của Đài Á Châu Tự Do (RFA) cho biết hôm Thứ Ba.
Sau khi ông George Floyd bị chết dưới bạo lực cảnh sát, một phong trào biểu tình chống kỳ thị người da đen đã bùng nổ và lan rộng khắp nước Mỹ và trên thế giới. Phong trào có sự tham gia của mọi tầng lớp, của nhiều sắc tộc khác nhau, trong đó có người Việt Nam. Sự kiện này đã dẫn đến nhiều mâu thuẫn trong tập thể người Việt, do cách nhìn trái chiều về vấn đề kỳ thị chủng tộc đối với người da đen và phong trào Black Lives Matter. Đặc biệt là giữa thế hệ trẻ và thế hệ những người lớn tuổi trong cộng đồng. Là một tổ chức đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền Việt Nam, với chủ trương Đấu tranh bất bạo động, đảng Việt Tân đã từng lên tiếng ủng hộ các phong trào biểu tình của người dân như ở Hong Kong. Chúng tôi có cuộc phỏng vấn với ông Hoàng Tứ Duy, Phát ngôn nhân Đảng Việt Tân, về nhận xét của ông đối với phong trào Black Lives Matter và sự tham gia của giới trẻ Việt Nam trong các cuộc xuống đường đòi công lý cho người Mỹ da đen.
Lời người dịch: Hồi cuối tuần qua, hơn một ngàn sinh viên sĩ quan West Point khóa 2020 đã làm lễ bế mạc khóa huấn luyện, bao gồm 7 sĩ quan gốc Việt. Ngay trước ngày lễ tốt nghiệp này, hàng ngàn niên trưởng West Point (The Long Gray Line), được xem là một giới tinh hoa và ưu tú của quân lực Hoa Kỳ, đã gởi thư chúc mừng khóa đàn em và tái nhắc nhở lời tuyên hứa cùng các giá trị mà người sĩ quan West Point cam kết sẽ theo đuổi và bảo vệ. Lá thư đăng trên trang Medium tái xác định vai trò phi chính trị và phi đảng phái của quân đội và chỉ bảo vệ hiến pháp, quốc gia cùng người dân. Bức tâm thư xem ra có giá trị với cả quân đội tại những quốc gia khác. ND
Theo văn chương vỉa hè thì “thợ lặn” là từ để ám chỉ những tay tổ nào khôn mánh quá Trời. Mỗi khi có người nào cần mượn hay nhờ vả họ làm cái gì đó là họ né liền, trốn biền biệt hoặc phịa ra đủ thứ lý do để khỏi làm…đúng theo câu “ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau”. Hình như số nầy hơi nhiều. Mà cũng ngộ, ngày xưa bên nhà, cái bếp là vùng bất khả xâm phạm, một thứ no man’s land đối với đàn ông con trai. Lỡ rũi có láng cháng xuống đó là bị mấy bà, biểu đi lên nhà trên đi, đi chổ khác chơi. Đây là chổ của đàn bà con gái, xuống đây làm gì.
Cuộc đời đưa đẩy tôi làm y công cho một bệnh viện ở Montreal. Công việc của tôi là chăm sóc người bệnh, giúp cho họ có được những giây phút thoải mái để cuộc sống dễ chịu hơn trong những ngày cuối cùng của đời họ trên dương thế nầy. Đó là những người bệnh già, bệnh nhân lú lẫn Alzheimer, những người bị ung thư vào giai đoạn cuối, những người mới vừa được mổ và những người bị bệnh tâm thần, v.v… Bệnh nhân được tôi săn sóc nằm trong khoảng tuổi từ 18 đến 101 tuổi. Có người còn rất trẻ, đâu trên dưới 20 tuổi mà phải chịu nằm chờ chết vỉ họ bị ung thư não. Có người bị cancer vú, mùi hôi thúi nồng nặc rất khó chịu, cần phải băng bó vết thương lại bằng những loại băng có chất than charbon activé cho đỡ hôi thúi. Họ không ngớt rên la cả đêm vì quá đau đớn và khó chịu. Họ thường năn nỉ để xin thuốc morphine nhằm giúp họ giảm đau.
Có 4 loại thức ăn trong cõi này: 1. Đoàn thực hay đoạn thực 2. Xúc thực 3. Ý tư thực 4. Thức thực
Việc triển khai 3 hàng không mẫu hạm 100,000 tấn của Hải Quân Hoa Kỳ tới Thái Bình Dương lần đầu tiên sau nhiều năm đã loam cho TQ nhanh chóng phản ứng, với truyền thông nhà nước nói rằng Bắc Kinh sẽ không lùi bước để bảo vệ lợi ích của mình trong khu vực, theo CNN cho biết hôm Thứ Hai, 15 tháng 6 năm 2020. USS Ronald Reagan và USS Theodore Roosevelt đều đang tuần tra ở phía tây Thái Bình Dương, trong khi USS Nimitz ở phía đông, theo thông cáo báo chí của Hải Quân Hoa Kỳ. Với mỗi tàu chứa hơn 60 máy bay, nó đại diện cho việc triển khai lớn nhất các hàng không mẫu hạm Mỹ ở Thái Bình Dương kể từ năm 2017 - khi căng thẳng với Bắc Hàn về chương trình vũ khí hạt nhân của Bình Nhưỡng đang ở đỉnh điểm.
Thành phố Bắc Kinh đã chứng kiến hơn 100 trường hợp mới bị lây vi khuẩn corona trong đợt bùng phát mới, theo Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) cho biết. Trong hơn 7 tuần, Bắc Kinh chỉ có các trường hợp bị lây nhiễm được ghi nhận từ những người đi du lịch từ nước ngoài. Mike Ryan, người đứng đầu chương trình khẩn cấp của WHO cho biết, loạt bị lây vi khuẩn corona mới là "luôn luôn là mối lo ngại." "Nhưng những gì chúng tôi muốn thấy là một phản ứng ngay lập tức với các biện pháp toàn diện," ông nói thêm. Truyền thông địa phương nói rằng vi khuẩn đã được phát hiện trên thớt cá được sử dụng cho cá hồi nhập cảng ở chợ, khiến các siêu thị lớn ở Bắc Kinh kéo cá ra khỏi kệ của họ.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.