Hôm nay,  

Song ngữ: Did the Buddha preach the Dharma, or did he not preach the Dharma? / Đức Phật có thuyết pháp hay không thuyết pháp

22/12/202317:31:00(Xem: 7401)
blank

Đức Phật có thuyết pháp hay không thuyết pháp

 

Tâm Diệu

 

Trong các thuật ngữ của đạo Phật, có lẽ không có từ ngữ nào mà người học Phật cần phải hiểu và cần phải phân biệt rõ ràng, nếu như muốn hiểu giáo lý thâm diệu của đạo Phật như hai thuật ngữ "Chân Đế" và "Tục Đế".

 

Thật vậy, Đức Phật, vì muốn độ chúng sinh thoát khỏi sinh tử luân hồi nên mới nương vào thế giới Tục đế mà nói pháp, nhằm chỉ bày cho chúng sinh thấy được cái bản chất chân thật tự nhiên của Tâm vốn sẵn có, để chúng sinh, tự nỗ lực tu hành giải thoát khỏi khổ đau sinh tử, lìa khỏi thế giới Tục đế, đến thế giới Chân đế.

 

Cũng vì thế mà Ngài Long Thọ Bồ tát nói rằng: "... Các Đức Phật vì chúng sinh, y vào Nhị đế mà nói pháp, thứ nhất là Thế tục đế và thứ hai là Đệ nhất nghĩa đế. Nếu người nào không nhận thức được hai chân lý này, thì đối với Phật pháp sâu xa, không thể hiểu được chân nghĩa. Nếu không nương tựa vào tục đế, thì không thể thấy được chân lý; nếu không thấy được chân lý, thì không thể ngộ được Niết bàn..." [1]

 

Tục đế là một hợp từ: "tục" nghĩa là thế tục, thế gian hay phàm tục, "đế" nghĩa là chân lý. Tục đế có nghĩa là những cái gì mà người thế tục đồng ý với nhau, gọi là chân lý quy ước hay còn gọi là chân lý tương đối, hoặc còn gọi là chân lý thế tục hoặc thực tại tương đối. Nó là tất cả những hiện tượng do duyên khởi tức là pháp sinh diệt trong thế gian nầy.

 

Còn Chân đế, cũng là một hợp từ, có nghĩa là chân lý chân thật không hư vọng, là chân lý tuyệt đối, là chân lý tối thượng, cũng còn gọi là Đệ nhất nghĩa đế, là chân tâm, là giác tánh, là chân như...

 

Chân lý tuyệt đối là gì? Không ai biết được ngoại trừ chính chư Phật và chư Tổ đã giác ngộ. Các Ngài cũng không thể nói cho chúng ta biết được. Toàn bộ giáo điển của chư Phật là pháp phương tiện, Ngài "dùng pháp thế gian, (tức thế tục đế) để giảng nói cho chúng sinh" [2], cốt để chúng sinh ngộ được cái chân lý tuyệt đối như Ngài vì Ngài thấy Tâm Phật và Tâm chúng sinh vốn không khác, vốn tự đầy đủ mênh mông khắp không gian và thời gian.

 

Thật vậy, xuyên qua lời dạy của Phật và chư Tổ, sở dĩ có sự sai khác là vì tâm chúng sinh bị mê mờ ô nhiễm. Cái Tâm bị bao vây bởi tham sân si, bởi vọng tưởng điên đảo, bởi tham nhiễm các pháp có không. Ngài Sogyal Rinpoche, một đại sư Tây tạng, ví Tâm chúng ta bị vây kín trong một cái bình mà "khoảng không trong bình cũng giống như khoảng không bên ngoài. Khi chúng ta giác ngộ, thì cũng như cái bình vỡ tan thành mảnh vụn... Ngay lúc đó và tại chỗ đó, chúng ta trực nhận được rằng chúng chưa từng bao giờ có sự ngăn cách hay sai khác..." [3]

 

Vì tâm sinh diệt của chúng sinh luôn luôn dính mắc vào các pháp "có không" nơi thế giới hiện tượng tức thế giới tục đế, nên Đức Phật thấy thật là khó nói về cái mà Ngài đã chứng ngộ, chẳng hạn như nói về Phật tánh, chân tâm, vốn không hình tướng, không số lượng. Nếu nói chúng sinh có Phật tánh là chấp trước, nói không có Phật tánh là hư vọng, nói Phật tánh cũng có cũng không là nói trái ngược nhau, nói Phật tánh chẳng có chẳng không là hý luận. Nên Phật mới dùng các pháp thế gian phương tiện, "giả lập kệ pháp, giả lập danh tự, vốn chẳng phải Phật, nói với họ là Phật, vốn chẳng phải Bồ Đề, Niết Bàn, giải thoát, nói với họ là Bồ Đề, Niết Bàn, giải thoát, ... Biết họ gánh trăm tạ chẳng nổi, tạm cho họ gánh một lon, một chén, biết họ khó tin giáo liễu nghĩa, tạm nói với họ giáo bất liễu nghĩa, tạm được pháp lành lưu hành còn hơn là pháp ác..." [4].

 

Cũng chính vì chân lý tuyệt đối này rất khó hiểu, khó nhận, khó nói nên đôi khi Ngài phải dùng những thí dụ bằng lời nói, như trong Kinh Pháp Hoa, Phật dùng bảy thí dụ, trong đó có hai thí dụ là cái nhà lửa và câu chuyện đứa con cùng tử mà ai cũng biết. Ngoài ra còn nhiều kinh khác như Bách Dụ Kinh, Tạp Thí Dụ Kinh, Bồ Tát Bổn Sanh Kinh, ... Các thí dụ Ngài nói trong kinh thường dùng phương thức ngụ ngôn, hàm chứa những ý nghĩa thâm thúy, ám thị lý tuyệt đối mà chân lý tuyệt đối này không thể dùng lời trực tiếp mà giảng giải vì lời chỉ là khí cụ diễn đạt cái tư tưởng tương đối, cái có hình, có tướng trong thế giới nhị nguyên.

 

Chư Tổ chứng ngộ cũng vậy, không thể nói cho chúng ta biết được chân lý tuyệt đối là gì, mà quý Ngài chỉ dùng những câu chuyện ngụ ngôn, như câu chuyện con rùa và con cá để làm thí dụ mà thôi. Rằng con rùa từ dưới nước bò lên mặt đất, đi một vòng rồi trở về nước, bơi cạnh con cá, kể chuyện đất liền cho nó nghe. Nhưng con cá, vì chưa bao giờ rời khỏi nước, không thể tưởng tượng nổi lại có một môi trường có thể sống được mà không có nước, không bơi lội. Cho nên con rùa đành chịu mang tiếng là nói chuyện viển vông hoang đường, không có trong thực tế. [5]

 

Cảnh giới tuyệt đối, chân tâm, giác tánh, chân như, mà Phật đã giác ngộ không thể nói cho người chưa chứng ngộ biết được. Vì lẽ đó mà người đời đôi khi cũng phê bình: "Đạo Phật cao siêu quá, không có trong thực tế". Nhưng chính đó mới là cốt tủy của Phật Giáo.

 

Kinh Kim Cang là kinh liễu nghĩa, nói về cốt tủy của đạo Phật, về chân lý tuyệt đối, cho nên không có pháp gì để nói. Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời vốn là nhân kiên cố của vòng xích luân hồi, đã lôi kéo chúng sinh vào vòng trầm luân muôn vạn kiếp. Ngài phá bỏ không còn một kiến chấp nào và Ngài cũng tuyên bố luôn là Ngài không thuyết pháp:

 

"- Tu Bồ Đề! Ông chớ cho Như Lai có nghĩ rằng: "Ta có nói pháp". Ông chớ nghĩ như vậy. Bởi vì sao?

- Vì nếu người nào nói rằng: Như Lai có nói pháp, tức là chê Phật, không hiểu được lời của ta nói.

- Tu Bồ Đề! Nói pháp, là không có pháp gì nói được, ấy gọi là nói pháp." (6)

 

Có nghĩa là Phật không nói về cái chân lý tuyệt đối, về cái chân tâm, Phật tánh, Chân Như, vì chân lý tuyệt đối vốn chẳng thể dùng ngôn ngữ tương đối thế tục để biểu thị. Ngài chỉ dùng ngôn ngữ thế gian tức chân lý thế tục để chỉ bảo chúng sinh, mà ngôn ngữ thế tục, là pháp tương đối thì không có tự tánh, chỉ do nhân duyên hòa hợp, và do nhân duyên hòa hợp nên không có thật.

 

Đức Phật khi giảng pháp, Ngài luôn luôn nói sự thật. Có khi Ngài nói về sự thật tương đối và có khi Ngài nói về sự thật tuyệt đốị Nếu không hiểu điều đó, chúng ta thấy nhiều điều Ngài nói trái ngược nhau và sẽ làm cho chúng ta bối rối, hiểu mập mờ, hỗn độn (confuse). Thí dụ như trong kinh Đại Bát Niết Bàn đức Phật nói:

 

Chư hành vô thường,

Thị sinh diệt pháp.

Sinh diệt diệt dĩ,

Tịch diệt vi lạc.

 

Tạm dịch là:

 

Các hành vô thường

Là pháp sinh diệt

Sinh diệt hết rồi

Tịch diệt là vui.

 

Hai câu đầu có nghĩa là tất cả các pháp trong thế giới hiện tượng đều vô thường, chúng đều là những pháp sinh diệt. Hai câu sau có nghĩa là khi sinh và diệt không còn sinh diệt nữa thì còn là niềm an lạc. Trong thế giới này, tức thế giới tương đối có sinh và có diệt, còn thế giới kia tức thế giới tuyệt đối thì không sinh không diệt. Nếu chúng ta không hiểu rõ tục đế và chân đế thì cho rằng đức Phật nói trái ngược nhau. Sự thật Ngài luôn luôn nói đúng sự thật. Hai câu đầu là tục đế tức thuộc thế giới hiện tượng tương đối, có sanh và có tử. Hai câu sau thuộc lãnh vực tuyệt đối tức chân đế, không có sinh và không có diệt, là thế giới của pháp tánh hay thế giới của bản thể.

 

Đến đây, chúng ta trở lại bài kệ của Bồ Tát Long Thọ đã nêu trên phần mở đầu. Bồ Tát dạy chúng ta rằng nếu chúng ta không phân biệt được chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối, tức thế tục đế và chân đế, thì chúng ta không thể hiểu được đạo Phật. Do sự không hiểu và không phân biệt rõ này, chúng ta lại nhập nhằng đem lời Đức Phật nói "Không thể nói pháp Tuyệt Đối", mà cho là Đức Phật nói "Không nói pháp Tương Đối" là chúng ta vô tình vướng mắc vào sự hủy báng kinh, chứa đựng những lời tâm huyết của Đức Phật. Ngài đã dùng ngôn ngữ và chân lý thế tục để dạy người thế tục biết cách mà tiến dần trên con đường từ bỏ thế tục, trở về bản thể tuyệt đối. Nếu chúng ta không hiểu được điều đó, mà tưởng rằng Đức Phật không nói pháp, thì chúng ta sẽ mất niềm tin nơi kinh, sẽ mất cơ hội có bản đồ chính xác để tìm đường trở lại bản thể chân tâm tuyệt đối.

 

 ----

 

Ghi Chú

 

 

 

(1).Thích Tâm Thiện, Lịch Sử Tư Tưởng và Triết Học Tánh Không, Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh 1999.

 

(2). Kinh Đại Bát Nhã, Cuốn 2, Trang 275

 

(3). Sogyal Rinpoche -Thích Nữ Trí Hải dịch, Tinh Chất Cam Lồ, , TP HCM Việt Nam 1969

 

(4). Bá Trượng Ngữ Lục, Thích Duy Lực, Từ ân Thiền Đường xuất bản, 1999 trang 29-30

 

(5). Narada Maha Thera, Đức Phật và Phật Pháp, Phạm Kim Khánh Việt dịch, Đại Nam xuất bản 1987, trang 458-459

 

(6). Thích Huệ Hưng dịch, Kinh Kim Cang Giảng Lục, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản 1983, trang 82.

 

 

(Trích từ sách Phật Pháp Trong Đời Sống, Nhà xuất bản Hồng Đức 2014)

 

Nguồn:

https://thuvienhoasen.org/p22a21709/15-duc-phat-co-thuyet-phap-hay-khong-thuyet-phap

 

.... o ....

 

Did the Buddha preach the Dharma, or did he not preach the Dharma?

 

Author: Tâm Diệu

Translated by Nguyên Giác

 

 To comprehend the profound teachings of Buddhism, students of Buddhism must understand and clearly distinguish between the two terms "Ultimate Truth" and "Conventional Truth."

  

The Buddha relied on worldly truth to speak Dharma in order to save sentient beings from the cycle of birth and death. His aim was to reveal the true nature of the existing mind to sentient beings, so that they could make their own efforts to practice and liberate themselves from the suffering of birth and death. This would enable them to leave the world of conventional truths and reach the world of ultimate truth.

 

That's why Nagarjuna Bodhisattva said, "For the sake of sentient beings, the Buddhas speak the Dharma based on the Two Truths: the first is the conventional truth, and the second is the ultimate truth. Anyone who is unaware of these two truths cannot understand the profound meaning of the Dharma. If one does not rely on conventional truths, one cannot see the truth; if one cannot see the truth, one cannot realize Nirvana."

 

The conventional truth, also known as secular truth, is a compound word: "secular" refers to worldly, and "truth" denotes truth. Conventional truth refers to the consensus among secular individuals, also known as relative truth or secular reality. All phenomena arise due to conditions, known as dharmas, and they arise and pass away in this world.

 

As for the ultimate truth, it is a compound word signifying genuine truth, not falsehood. It represents the absolute truth, the supreme truth, the truth of highest significance, the true mind, the nature of awareness, or suchness.

 

What is the absolute truth? No one knows, except the enlightened Buddhas and Patriarchs. They also cannot inform us. The entire teachings of the Buddhas are expedient methods. The Buddha utilized worldly dharma, the conventional truth, to teach living beings so that they could comprehend the absolute truth, just as he did, perceiving no distinction between the mind of Buddha and the mind of any worldly being. The same mind is inherently self-sufficient and vast across space and time.

 

Indeed, the teachings of the Buddha and the Patriarchs are often misinterpreted due to the confusion and pollution of the reader's mind. When the mind is consumed by greed, anger, and ignorance, as well as contradictory delusions, and by clinging to attachments of existence or non-existence, that is the moment of turmoil. Sogyal Rinpoche, a renowned Tibetan master, compares our mind to being enclosed in a vase, stating that "the space inside the vase is the same as the space outside. When the practitioner achieves enlightenment, it is akin to seeing a vase shattered into pieces. Right then and there, the practitioner directly perceives that space has never had any separation or difference."

 

Because the minds of sentient beings are constantly arising and passing away, always attached to the existence or non-existence of the phenomenal world (i.e., the worldly truth), the Buddha found it difficult to articulate the Dharma that he realized, such as Buddha nature or the true mind, which has no form or quantity. If we assert that sentient beings possess Buddha nature, we embrace the mistaken concept of existence. If we deny the existence of Buddha nature, we are holding onto an illusion. If we assert that Buddha nature both exists and does not exist, it leads to a contradiction. If we assert that Buddha nature is neither existent nor nonexistent, it becomes nonsensical. That's why Buddha used the concept of worldly dharma, which refers to half-truths in verses, names, and words. Where there was no Buddha, he still claimed that there was a Buddha. Similarly, even in the absence of Bodhi, Nirvana, or liberation, the Buddha still informed the audience that it was Bodhi, Nirvana, or liberation. Understanding that the listeners were unable to carry a load of hundreds of kilograms, the Buddha temporarily allowed them to carry either one vase or one cup. The Buddha understood that his listeners struggled to believe in teachings with ultimate meanings. Therefore, he temporarily shared teachings that did not have ultimate meanings, allowing beneficial worldly teachings to circulate temporarily, rather than allowing harmful beliefs to arise.

 

Because this absolute truth is very difficult to understand, live with, and interpret, the Buddha sometimes had to use similes. As in the Lotus Sutra, Buddha used seven examples, two of which are well-known: the house on fire and the story of the wandering son. There are also numerous other sutras, including the Sutra of One Hundred Similes (Bách Dụ Kinh), the Sutra of Multiple Similes (Tạp Thí Dụ Kinh), the Jataka Tales (Bồ Tát Bổn Sanh Kinh), and more. In numerous sutras, the Buddha employed metaphors with profound meanings to illustrate the absolute truth, which cannot be directly conveyed in words because words can only express worldly ideas that have shape and form in the realm of duality.

 

Similarly, the Enlightened Patriarchs are unable to provide us with the absolute truth; instead, they rely on parables, such as the story of the turtle and the fish, to illustrate their points. The turtle emerged from the water, moved around on land, and then returned to the water. It swam alongside the fish and shared stories about the land. The fish, having never left the water, cannot imagine an environment where it can survive without water and without swimming. Consequently, the turtle had to bear the reputation of speaking about wild nonsense that had no basis in reality.

 

The absolute realm to which the Buddha was enlightened—such as the true mind, nature of awareness, and suchness—cannot be explained to ignorant people. For that reason, people sometimes criticize Buddhism as being too sublime, too abstract, and disconnected from reality. But that is the essence of Buddhism.

 

The Diamond Sutra is one of the most profound sutras, delving into the essence of Buddhism and the absolute truth, asserting that there is truly no dharma to speak of. The Buddha's teachings in this sutra assist sentient beings in overcoming their relative understandings, inherent wrong views, and long-standing entanglements that are significant causes of the cycle of reincarnation. These factors have led sentient beings into an almost eternal cycle of birth and death.

 

The Buddha rejected all attachment to views and stated that he never claimed to preach the Dharma. The Diamond Sutra states: "Subhuti! Do not let the Tathagata think that the Buddha taught the Dharma. Please do not think like that. Why? If anyone claims that the Tathagata spoke the Dharma, it implies that this person is criticizing the Buddha and does not understand my teachings. Subhuti! To speak the Dharma is to say that there is no Dharma to say; that is called speaking the Dharma."

 

Buddha does not discuss the absolute truth, the true mind, Buddha nature, or True Suchness, as these concepts cannot be expressed in the relative language of the world. He only employs mundane language, or the secular truth, to guide sentient beings. However, mundane language, which is conditioned dharma, is inherently empty. It appears through the combination of causes and conditions and therefore cannot indicate the unconditioned truth.

 

When preaching the Dharma, the Buddha always spoke the truth. Sometimes the Buddha discussed conventional truth, and at other times, he discussed absolute truth. If we fail to comprehend this, we may perceive many of the Buddha's teachings as contradictory, leading to misunderstanding or confusion.

 

For example, in the Mahaparinirvana Sutra, the Buddha said,

 

"All formations are impermanent;

they are the phenomena of birth and death.

When birth and death come to an end,

cessation is bliss."

 

The first two lines indicate that all phenomena in the secular world are impermanent; they are all subject to birth and death. The last two lines imply that once birth and death cease to exist, what will remain is blissful peace. This world is a realm of relative birth and death. As for the world on the other shore, the absolute world, there will be no birth and no death. If we do not have a clear understanding of the conventional truth and the ultimate truth, we may mistakenly believe that the Buddha made contradictory statements. In fact, Buddha always spoke the truth. The first two lines express the conventional truth, which pertains to the realm of relative phenomena, where birth and death occur. The last two lines pertain to the absolute realm, which represents the ultimate truth. In this realm, there is no birth or death; it is the world of dharma nature, or the world of inherent essence.

 

At this point, we return to the verse of Bodhisattva Nagarjuna mentioned in the opening of this article. Bodhisattva teaches us that if we cannot distinguish between relative truth and absolute truth, that is, worldly truth and ultimate truth, then we cannot fully comprehend Buddhism. Due to this lack of understanding and lack of distinction, we ambiguously interpret the Buddha's words to mean that the Absolute Dharma cannot be conveyed, and mistakenly believe that the Buddha did not speak about the Relative Dharma. This unintentionally leads to slandering the sutras, which contain the essential words of the Buddha. He employed everyday language and conventional truths to instruct ordinary people on how to gradually advance on the path of renouncing the phenomenal world in order to reconnect with their essential nature. If we fail to comprehend this and believe that the Buddha did not teach the Dharma, we may lose faith in the sutras and miss the chance to possess an accurate guide to rediscover the true nature of the absolute mind.

 

(Excerpted from the book Live The Buddhist Teachings, Hồng Đức Publishing House, 2014)

 

.... o ....




Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm nay, Thượng Nghị Sĩ Tom Umberg và Dân Biểu Tyler Diệp đã đưa ra lời tuyên bố sau đây liên quan đến việc mở cửa lại các tiệm Nail ở California. Thượng Nghị Sĩ Tom Umberg và Dân Biểu Tyler Diệp đã cùng một liên minh lưỡng đảng bao gồm 8 nhà lập pháp đại diện các cư dân Orange County tham gia thảo luận với văn phòng Thống Đốc Gavin Newsom nhằm kêu gọi cho phép mở cửa lại các tiệm Nail tại Californai. Quý vị dân cử này đã nêu yêu cầu chính thức của họ trong một bức thư gửi cho Thống Đốc Newsom vào đầu tuần nay. Và hôm nay, một tin vui đến với chúng ta – Thống đốc Newsom đã công bố mở cửa lại các tiệm Nail sẽ bắt đầu hiệu lực từ ngày 19 tháng Sáu.
Sau khi đóng cửa kể từ tháng Ba để giúp ngăn chặn sự lây lan của COVID-19, Chánh Lục Sự Hạt Orange Hugh Nguyễn rất vui mừng thông báo việc mở lại các văn phòng của mình cho công chúng có hiệu lực kể từ thứ Tư, ngày 10 tháng 6 năm 2020. Văn phòng sẽ cung cấp tất cả các dịch vụ của mình đồng thời thực hiện các hướng dẫn giữ khoảng cách bảo đảm an toàn cho nhân viên và công chúng. Các dịch vụ sẽ tiếp tục bình thường tại văn phòng chi nhánh của quận bắc ở Anaheim, văn phòng chi nhánh quận Nam ở Laguna Hills, tại Old County Courthouse ở Santa Ana và tại tòa nhà County Administration South tại Civic Center Plaza ở Santa Ana. Văn phòng ở Westminster sẽ vẫn đóng cửa cho đến khi có thông báo mới.
Xét về cao độ thì Sơn Núi (Nguyễn Đức Sơn) ở thấp hơn nhiều bạn đồng nghiệp của mình – như Bùi Minh Quốc, Hà Sĩ Phu, Mai Thái Lĩnh, Tiêu Dao Bảo Cự… – xa lắc. Những nhân vật này đều có thời là biên tập viên của tạp chí Lang Biang, tờ báo (đã bị đóng cửa) này lấy tên theo vùng cao nguyên lâm Viên mà họ đang sinh sống. Đỉnh Lâm Viên, ở Đà Lạt, cao hơn hai ngàn mét lận. Từ đây, muốn leo lên trời (để đái, hay làm gì tùy thích) còn tiện hơn nhiều. Ngoài lợi thế nhỏ nhặt này ra, những cư dân ở miền sơn cước gặp phải toàn là những điều (vô cùng) bất tiện. Họ xa cách (mịt mù) với thế giới văn minh, ở những đô thị miền xuôi. Tôm cá hì hục chở lên đến được đến cao nguyên (thường) đã bị ươn, và thông tin khi nhận được thì (ôi thôi) hoàn toàn đã cũ.
Theo bản tin của ABC 7 EyeWitness News ra ngày 11 tháng 6, năm 2020, Bác sĩ Nichole Quick, Giám Đốc Y Tế của Quận Cam đã từ chức vào tối thứ Hai, 8 tháng 6, vì các lời chỉ trích bà về việc bà ra lệnh bắt buộc mang khẩu trang trong lúc các cơ sở thương mại bắt đầu mở cửa trở lại. Theo bản tin của Voice of OC, Giám Sát Viên Michelle Steel and Don Wagner đã chất vấn BS Nick Quick nhiều câu hỏi liên quan đến lệnh đeo khẩu trang trong buổi họp của Hội Đồng Giám Sát trước khi BS Quick từ chức.
Bệnh Chân Lực Sĩ athlete’foot là bệnh rất thường xẩy ra ở mọi người và thường thấy ở các khe ngón chân.Nguyên nhân là các loại nấm.Bệnh thường thấy ở con trai chưa tới tuổi dậy thì. Ở người trưởng thành, cứ sáu người nam thì một người nữ mắc bệnh, nhưng nguyên nhân là do thói quen không đẹp chứ không phải vì sinh học.
Thủy sản có thể bị nhiễm khuẩn Salmonella,Vibrio vulnificus, Vibrio parahaemolyticus hiện diện trong nước bẩn. Virus norwalk (Norovirus) cũng là một vấn đề quan trọng ở sò hến tại Bắc Mỹ. Rối loạn tiêu hóa, đau bụng, tiêu chảy là những biểu lộ thông thường sau khi dùng phải thực phẩm có chứa những mầm bệnh vừa kể. Ngoài ra sò hến cũng có thể bị nhiễm virus viêm gan A (hepatitis A).
Mô tả COVID-19 như là “ác mộng tồi tệ nhất” trong đời ông, Bác Sĩ Anthony Fauci, chuyên gia bệnh truyền nhiễm hàng đầu trên toàn quốc Hoa Kỳ, hôm Thứ Ba, 9 tháng 6 năm 2020 nói rằng vẫn còn nhiều điều chưa biết về vi khuẩn corona và cảnh báo rằng đại dịch đang diễn ra vẫn còn quá xa để kết thúc."Trời ơi! Nó sẽ kết thúc ở đâu? Chúng ta vẫn còn ở giai đoạn khởi đầu của sự hiểu biết thực sự,” theo Bác Sĩ Fauci, giám đốc Viện Dị Ứng Và Bệnh Truyền Nhiễm Quốc Gia, cho biết về đại dịch trong một hội nghị mạng do BIO, Tổ chức Đổi Mới Công Nghệ Sinh Học, tổ chức, theo báo New York Times đưa tin.
Giữa mùa đại dịch COVID-19, tại những buổi tường trình mỗi ngày, Tổng thống Mỹ Donald Trump và Phó Tổng thống Mike Pence không ngớt tiên đoán sự lớn mạnh vượt bực của kinh tế quốc gia Hoa Kỳ sau khi tình hình dịch tễ lắng đọng. Hai ông nhấn mạnh rằng kinh tế Mỹ hậu-COVID-19 sẽ tìm lại thế quân bằng sau những chao đảo khiếp hãi khiến cả 40 triệu nhân công thất nghiệp trong vòng vỏn vẹn ba tháng trời. Đầu tháng Sáu, hy vọng bắt đầu le lói khi guồng máy kinh tế rục rịch mở cửa lại, ai nấy trông đợi ánh sáng tỏa lớn cuối đường hầm.Tuy nhiên, mặc dù người ta có quyền hy vọng vào sự thịnh vượng chung, nhưng sự thật là đối với các thành phần ít may mắn hơn trong xã hội (vâng, phần đông trong đó là những sắc dân da màu thiểu số), khó khăn kinh tế gần như là một điều chắc chắn. Ai cũng tưởng sau khi COVID-19 giáng một đòn chí tử lên kinh tế Hoa Kỳ, thì khoảng cách chênh lệch giữa hai thành phần giàu-nghèo sẽ phần nào thu hẹp, nhưng oái oăm thay, mọi bằng chứng cho thấy sự khác biệt ấy
Nguyễn nhựt Thông là cháu kêu tác giả bằng Dượng Tư (má Thông và ds Ngoc lan là 2 chị em ruột) là một nhân viên điều dưỡng ( (préposé aux bénificiaires) tại một bệnh viện lớn ở Montreal. Mấy năm trước đây, cậu ta làm việc tại một bộ phận có thể được gọi là hắc ám nhứt . Đó là tầng bệnh nhân « tạm trị » trong giai đoạn cuối đời (unité de soins palliatifs) Đây là đơn vị của các bệnh nhân hết thuốc chữa và chỉ còn chờ ngày ra đi mà thôi. Sau đây là đôi dòng tâm sự của cậu ta. « …Cuộc đời đưa đẩy tôi làm nhân viên cho một bệnh viện ở Montreal. Công việc của tôi là chăm sóc người bệnh, giúp cho họ có được những giây phút thoải mái để cuộc sống dễ chịu hơn trong những ngày cuối cùng của đời họ trên dương thế nầy.
Các cư dân của Quận Cam không còn phải đeo mặt nạ ở nơi công cộng, theo các viên chức tuyên bố hôm Thứ Năm, 11 tháng 6 - một sự thay đổi đột ngột trong các lệnh y tế sau nhiều tuần tranh luận về việc sử dụng các tấm che mặt để ngăn chặn sự lây lan của vi khuẩn corona, theo báo Los Angeles Times cho biết. Đeo mặt nạ sẽ chuyển từ được đòi hỏi thành khuyến nghị mạnh mẽ trong môi trường công cộng theo lệnh sửa đổi từ Giám Đốc Cơ Quan Chăm Sóc Sức Khỏe Quận Cam mới, Bác Sĩ Clayton Chau, cho biết. Chau nói trong cuộc họp báo rằng ông sẽ đưa ra lệnh mới vào chiều tối Thứ Năm. “Tôi muốn nói rõ rằng điều này không làm giảm tầm quan trọng của việc che mặt,” theo ông nói. “Tôi cùng lập trường với các chuyên gia y tế công cộng và tin rằng việc che mặt bằng vải giúp làm chậm sự lây lan của COVID-19 trong cộng đồng của chúng ta và cứu mạng sống. Bằng cách phù hợp với tiểu bang, điều này sẽ cung cấp cho cộng đồng doanh nghiệp và cá nhân của chúng ta khả năng đưa ra quyết định phù hợp nhất ch
Khoảng một nửa tá tiểu bang bao gồm Texas và Arizona đang vật lộn với số lượng bệnh nhân vi khuẩn corona gia tăng nằm đầy giường bệnh viện, gây lo ngại rằng việc mở lại nền kinh tế Hoa Kỳ có thể gây ra làn sóng lây lan thứ hai, theo Reuters. Chứng khoán toàn cầu đã sụp đổ hôm Thứ Năm, 11 tháng 6, với thị trường Dow Jones mất hơn 1,800 điểm, vì lo ngại về sự tái vùng dậy của đại dịch. Lần trước S&P 500 và Dow giảm nhiều trong một ngày là vào tháng 3, khi các trường hợp lây lan vi khuẩn corona tại Hoa Kỳ bắt đầu tăng mạnh. Sự gia tăng các trường hợp bị lây tới cao điểm hiện nay là khoảng một chục tiểu bang một phần phản ảnh việc thử nghiệm tăng tốc. Nhưng nhiều tiểu bang trong số đó cũng chứng kiến việc tăng số người vào bệnh viện và một số đang bắt đầu thiếu hụt giường cho phòng chăm sóc đặc biệt.
Trong khu phố Capitol Hill của thành phố Seattle thuộc tiểu bang Washington, các cảnh sát đã rút lui và cho phép những người biểu tình chiếm lấy một phần của thành phố, nơi được gọi là "Khu Tự Trị Đồi Capitol". Sở Cảnh Sát Seattle đã rời khỏi Khu Vực Đông vào Thứ Hai và đã đóng ván lên các cửa sổ và cửa ra vào. Kể từ đó, những người biểu tình đã rào chắn xung quanh khu vực và biến nó thành khu vực không có cảnh sát của riêng họ để biểu tình. Cảnh sát thành phố Seattle thuộc tiểu bang Washington cho biết họ đã nhận được nhiều báo cáo về các nhân viên an ninh có vũ trang và khả năng tống tiền trong một khu tự trị tự tuyên bố kéo dài một nhiều khúc đường và bao gồm một khu vực hiện đang đóng cửa.
Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ tố cáo chính quyền CSVN vẫn tiếp tục đàn áp tôn giáo trong năm 2019 qua bản báo cáo về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế mà bộ này công bố hôm 10 tháng 6, theo bản tin của Đài Á Châu Tự Do (RFA) cho biết.
Ngày 10 tháng 6 năm 2020, Thượng Nghị Sĩ Tom Umberg cùng quý dân cử: Dân Biểu Tyler Diệp, Dân Biểu Phillip Chen, Dân Biểu Sharon Quirk-Silva, Dân Biểu Steven Choi, Dân Biểu William P.Brough, Thượng Nghị Sĩ Ling Ling Chang, và Thượng Nghị Sĩ Patricia C.Bates vừa đồng ký tên trong một bức thư gửi đến Thống Đốc Gavin Newsom mang nội dung yêu cầu không đình hoãn việc mở cửa lại các tiệm Nail.
Rồi đây các sử gia sẽ lượng giá biến cố Minneapolis, mới đầu tưởng chừng như nhỏ bé, bình thường vì biết bao người Da Đen đã từng bị cảnh sát Da Trắng bắn chết một cách oan uổng, nhưng không ngờ biến cố này lại gây tác động toàn cầu. Nguyên do tại đâu?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.