Hôm nay,  

Con Đường An Lạc Sáng, Trưa, Chiều, Tối

08/11/202409:17:00(Xem: 3706)

blank

Nhà sư uống trà. (Hình: generated by Bing AI)

 

“Sách bỏ túi” cho người cao tuổi
CON ĐƯỜNG AN LẠC
 

SÁNG, TRƯA, CHIỀU, TỐI
 

Đỗ Hồng Ngọc
 

Kinh sách khuyên học Phật dù một câu một chữ cũng… quý!
Lục tổ Huệ Năng lúc còn gánh cũi trên rừng chỉ nghe người ta tụng câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà hoát nhiên đại ngộ. Lại nhớ chuyện một thiền sư cho đệ tử mỗi một chữ “Vô” để làm “thoại đầu” mà thiền tập…
Các bậc tôn túc tự xưa đã đúc kết những câu những chữ chẳng đáng cho ta ngẫm ngợi đó sao?
Chẳng hạn “trà Tào Khê”, “cơm Hương Tích”, “thuyền Bát Nhã”, “ trăng Lăng Già” !

 

SÁNG: Trà Tào Khê

 

Huệ Năng từ phương Nam lặn lội đến Huỳnh Mai bái Ngũ tổ Hoàng Nhẫn. Tổ hỏi: “Ngươi từ phương nào đến, muốn cầu vật chi ?” Huệ Năng đáp: “Đệ tử là dân Lãnh Nam, từ xa đến lễ Thầy, chỉ cầu làm Phật, không cầu gì khác !” Tổ bảo: “Ông người Lãnh Nam quê mùa, ít chữ, làm sao kham làm Phật ?” Huệ Năng đáp: “Người có Bắc Nam chớ Phật tánh đâu có Nam Bắc. Kẻ quê mùa này cùng với Hòa thượng chẳng đồng, nhưng Phật tánh đâu có sai khác!” Hoàng Nhẫn giật mình. Cho xuống bếp… bửa củi, nấu cơm, giã gạo!

Không lâu sau đó, Ngũ Tổ gọi riêng truyền dạy cho, rồi trao y bát, lẻn đưa Huệ Năng xuống thuyền trốn về phương Nam xa xôi nơi có dòng suối mát Tào Khê tu tập. Huệ Năng trở thành Lục Tổ từ đó, ngày ngày uống ngụm trà Tào Khê, bắt đầu truyền thụ dòng Thiền “đốn ngộ”. Tâm truyền tâm. Bất lập văn tự. Kiến tánh thành Phật. Lấy Vô niệm làm tông, Vô tướng làm thể, Vô trụ làm gốc.

Huệ Năng dạy học trò nghiêm khắc. Đệ tử từ xa tìm đến tham vấn, xin ấn chứng mà chưa tỏ ngộ, chưa thấy “bổn lai vô nhất vật”, chưa nhận ra “Thức tự tâm chúng sanh/ Kiến tự tâm Phật tánh”, còn loay hoay dính mắc mãi những đâu đâu thì thường bị quở phạt, trách mắng, cảnh tỉnh.

Một hôm có người học trò Vĩnh Gia Huyền Giác đến Tào Khê. Huyền Giác xuất gia từ nhỏ, tinh thâm Thiên Thai tông, nhờ xem Duy Ma Cật Sở Thuyết mà tâm địa bừng ngộ.
Gặp Huệ Năng, ông đi quanh ba vòng rồi chống tích trượng đứng yên.
Huệ Năng trách :
– Phàm làm Sa môn phải đủ ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, Đại đức từ đâu đến mà lớn lối ngạo mạn vậy?
Huyền Giác trả lời: Sinh tử sự đại/ Vô thường tấn tốc (sinh tử việc lớn, vô thường mau chóng, lễ nghĩa làm chi!).
Huệ Năng đáp :
Sao không nhận cái lý (thể) “Vô sinh” và thấu rõ (liễu) cái nghĩa “không chóng”.
Huyền Giác đáp: “Thể” tức vô sinh, “liễu” vốn không chóng.
Huệ Năng khen: Đúng vậy! Đúng vậy!
Thế rồi Huệ Năng cùng Huyền Giác đối đáp, càng lúc càng sôi nổi.
Đoạn, Huyền Giác xin kiếu về, Huệ Năng hỏi.
Về chóng thế sao?
Rồi, mời Huyền Giác ở lại Tào Khê với mình một đêm để cùng uống trà… mà đàm đạo!
Về sau, Huyền Giác viết Chứng đạo ca:
Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân,
Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân ?
Vô minh thực tánh tức Phật tánh,
Ảo hoá không thân tức Pháp thân.
(…)

 

TRƯA: Cơm Hương Tích

 

Hôm đó Duy Ma Cật tiếp Bảo Tích và năm trăm vị vương tôn công tử, thiếu gia, con nhà viên ngoại- là những Bồ-tát tại gia tương lai- tại cái thất trống trơn của ông ở thành Tỳ-da-ly.
Giữa lúc mọi người đang sôi nổi hào hứng bàn những chuyện cao xa như hữu lậu với vô lậu, hữu vi và vô vi, sinh tử và niết bàn… thì Xá-lợi-phất, vị đệ tử trí tuệ bậc nhất của Phật, lên tiếng đưa mọi người về “mặt đất”: “Sắp đến giờ ăn rồi. Các vị Bồ Tát này sẽ ăn thức gì đây?”.
Duy-ma-cật: “ Xin đợi cho giây lát, tôi sẽ khiến quý vị được thứ thức ăn chưa từng có”.
Thức ăn chưa từng có ư? Với các vị vương tôn công tử, thiếu gia, con nhà trưởng giả này thì cao lương mỹ vị có gì là lạ, tổ yến hồng sâm, nem công chả phượng có gì là lạ.
Họ háo hức chờ đợi Duy-ma-cật mang đến thứ thức ăn “chưa từng có”!

Thì ra… Duy-ma-cật mang đến một mùi hương! Một mùi hương thơm. Thứ “thức ăn” xin được từ cõi Chúng Hương của Phật Hương Tích! Đó là một thứ “thức ăn” chưa từng có.
Duy-ma-cật liền nhập vào Tam-muội, dùng sức thần thông khiến cho đại chúng nhìn thấy về hướng trên, cách đây nhiều cõi Phật liên tiếp nhau như số cát của bốn mươi hai con sông Hằng, có một cõi nước tên là Chúng Hương, hiện có đức Phật hiệu là Hương Tích ngự tại đó. Nước ấy có mùi thơm bậc nhất đối với các mùi thơm của người ta và chư thiên ở các thế giới chư Phật mười phương. Khắp cõi ấy, mùi thơm tạo ra lầu gác. Người ta đi trên đất bằng mùi thơm. Các cảnh hoa viên và vườn tược đều bằng mùi thơm. Từ nơi thức ăn, mùi thơm bay tỏa ra khắp vô lượng thế giới mười phương.
Duy-ma-cật chỉ xin “chút xíu thức ăn thừa” của Phật Hương Tích để đãi các vương tôn công tử tại Tỳ-da-ly hôm ấy. Chỉ một chút xíu thức ăn thừa thôi nhé. Một chút thức ăn thừa thôi cũng đã là quá đủ, bởi thứ « thức ăn chưa từng có” đó là một thứ « vô tận hương » đến từ bên trong của người có giới đức. Chính là hương giới đức. Một thứ hương có thể “bay cao, bay xa, bay ngược chiều gió”!

Hương thơm giới đức không thể có trong một ngày một buổi. “Hương” thơm đó phải được “Tích” chứa từ từ mới đầy dần lên được, mới sung mãn, mới tràn trề… mới “ngát hương”!

Nhờ giới đức, cõi Chúng hương đó của Phật Hương Tích chẳng cần phải thuyết pháp bằng văn tự mà chỉ dùng các mùi hương là đủ. Mọi chúng sanh nhờ hương giới đức mà đắc nhập luật hạnh. Bồ-tát ở cõi đó mỗi vị đều ngồi nơi cội cây thơm, nghe mùi thơm vi diệu kia mà thành tựu hết thảy các phép Tam-muội Đức tạng. Chẳng cần phải nói năng cho phiền hà, gây tranh cãi, hí luận. Bởi Giới là gốc. Có Giới thì có Định, có Huệ đó vậy.

 

CHIỀU: Thuyền Bát Nhã

 

“Bát Nhã” lúc nào cũng phải có… “thuyền”! Nhưng có lúc “bè” cũng được… Có lần Phật bảo các đệ tử: Qua sông rồi còn vát bè theo chi cho nặng!
Quán Tự tại Bồ tát hành thâm Bát Nhã ba-la-mật-đa (Prajna Paramita) thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Bát Nhã luôn là Bát Nhã “Ba-la-mật”. Prajna paramita. Para: bờ kia, bên kia. Mita: đến. Paramita: là đến bờ kia, là “đáo bỉ ngạn”. Từ bờ mê qua bến giác.
Qua bờ kia thì “Độ nhất thiết khổ ách” được ư? Được. Với điều kiện hành thâm Bát Nhã. Thấy rõ năm uẩn đều Không. Chẳng những vậy, khi đã thấy không tướng, thực tướng vô tướng, đã sống với Bát Nhã, sống trong Bát Nhã thì… cái núi Tu Di to đùng kia có thể nhét vào hột cải, nước bốn biển mênh mông nọ có thể cho vào một lỗ chân lông… !
Một khi  đã vô ngại thì sự vô ngại. Lý sự đã vô ngại thì sự sự vô ngại…

Nhưng, thuyền có đi thì có về, có qua thì có lại. Các vị Bồ-tát theo nguyện vì người mà nấn ná cõi Ta-bà, qua qua lại lại giữa đôi bờ. Thuyền thong dong qua lại mà cũng chỉ quanh quẩn ở lòng ta, tâm ta.

Con thuyền vẫn đi có khi trên dòng nước xuôi, có khi trên dòng nước ngược. Phải chèo phải chống. Không dễ mà lõng buông tay lái. Bố thí. Trì giới. Nhẫn nhục. Tinh tấn. Thiền định. Trí huệ.

Bát Nhã, Prajna, là cái Biết trước cái Biết. Pra là trước, Jna là biết. Cái biết trước cái biết là cái biết hiện tiền, biết “như thực”, không qua suy luận, phê phán, biện biệt. Cho nên nó đã là Trí chớ không còn là Thức nữa. Hay nói cách khác Thức đã chuyển thành Trí.

 

TỐI: Trăng Lăng Già

 

Chưa có khi nào Phật cười to như thế, cười sảng khoái, “cười hùng mạnh như vua sư tử…” giữa đêm trăng Lăng Già cùng với chúa đảo Ravana và thần dân của ông, với sự có mặt của hàng ngàn Bồ tát.
Ấy bởi Phật đã thuyết giảng chân lý giúp cho mọi người chuyển hóa tâm thức, vượt ngoài tri thức lý luận, vượt cả tam-ma-địa thông thường để mà an trú trong Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa, cảnh giới cao nhất, nhập vào Như lai tạng, bằng tự chứng tự nội…

Giữa đỉnh núi ở trên đảo Lăng Già khi nhìn những ánh trăng bập bềnh trên sóng nước, vỡ tan, vỡ tan theo từng con sóng, Phật đã cất tiếng cười to. Ánh trăng vỡ tan và gom tụ lại. Rồi vỡ tan, rồi gom tụ lại. Hoa đốm hư không. Dấu chân chim ngang trời. Bức tranh vân cẩu. Nó vậy đó. Thế giới muôn hồng ngàn tía cũng chỉ do tâm thức tạo ra. Nó như huyễn, nó như mộng, như bào ảnh, như sương mai, như ánh chớp… Bên dưới đó, là Như Lai tạng, là A-lai-da vẫn im ả, “như như bất động”. Chỉ có cái thức tâm phân biệt của ta quậy phá chính ta. Cái tâm thanh tịnh bổn nhiên kia vẫn im ắng. Không lay động. Vẫn bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.

Vì thức khởi mà sự sinh. Thế giới chỉ là tâm thức của chính mình. Chúng sanh là ảo vật do ảo thuật gia là ta vẽ bày để rồi tự mình phan duyên, dính mắc, khổ đau…

Bồ tát thấy biết như vậy, thấy biết nhứt thiết duy tâm tạo, thấy chúng sanh là ảo vật do chính mình tạo ra rồi thức tâm phân biệt, chấp trước mà khổ đau bèn nói thẳng cho mọi người cùng biết. Nói thẳng ra như thế mới là “lòng từ chân thật”, không giấu giếm, che đậy, không hù dọa, gạt gẫm nhau chi! Vì như huyễn, mà có lòng Từ. “Trí chẳng đắc có không/ Mà hưng tâm đại bi”.

Tâm bất sinh thì vô sinh. Vô sinh thì vô sự. Dứt mọi phân biệt của thức tâm thì không bị quậy phá nữa. Ở đó là Như Lai tạng. Nhất thiết chủng trí. Đại viên cảnh trí.
Thấy biết Như Lai, thì sống với Như Lai, sống trong Như Lai, sống cùng Như lai vậy.

(ĐHN)

 

 

…. o ….

 

A pocketbook for the elderly

A PATH TO PEACE & JOY

Chapter 7:

MORNING, NOON, AFTERNOON, EVENING

 

By Đỗ Hồng Ngọc, M.D.

Translated by Nguyên Giác

 

The scriptures suggest that learning Buddhism, even a single sentence or word, is invaluable.

The Sixth Patriarch, Hui Neng, while carrying firewood in the forest, overheard people chanting the phrase, “Let your mind cling to nothing; then the mind of Nirvana will appear,” and he suddenly attained enlightenment. I also recall the story of a Zen master who instructed his disciple to meditate on just one word: “No.” This practice encouraged the disciple to observe the mind before any thoughts arose.

The esteemed elders of the past have distilled phrases and words that merit our thoughtful reflection. For instance: Tào Khê tea, Hương Tích rice, Bát Nhã boat, and Lăng Già moon.

 

MORNING: Tào Khê tea

Hui Neng traveled from the South to Huang Mai to pay his respects to the Fifth Patriarch, Huang Ren. The Patriarch asked, “Where do you come from, and what do you seek?”

Hui Neng replied, “I am a native of Lingnan. I have traveled a long distance to pay homage to the Master. My only desire is to become a Buddha; I do not seek anything else!”

The Patriarch said, “You are a rustic from Ling Nan, with little education. How can you become a Buddha?”

Hui Neng replied, “People have North and South, but Buddha nature has neither North nor South. This ordinary person is not the same as the Venerable, yet Buddha nature is not different!”

Huang Ren was taken aback. He instructed Hui Neng to go to the kitchen to chop wood, cook rice, and pound the rice!

Not long after that, the Fifth Patriarch summoned him privately for instruction, then bestowed upon him the dharma robe and bowl. He secretly took Hui Neng onto a boat to journey to the far South, where the cool Tào Khê stream awaited him for practice. Many years later, Hui Neng became the Sixth Patriarch. From that point on, the image of sipping Tào Khê tea each day came to symbolize the transmission of the Zen school of sudden enlightenment. This Zen method emphasizes a wordless transmission from mind to mind, teaching that one who perceives their true nature becomes a Buddha. It upholds No-thought as the central principle, identifies No-form as the true essence of all dharmas, and regards the mind anchored in No-abiding as the root of understanding.

Hui Neng taught his disciples with strictness. Disciples traveled from distant places to seek guidance and confirmation. However, those who had not yet attained enlightenment—who had not recognized that in the true nature there is not a single thing, had not yet realized that consciousness is the sentient beings arising in the mind, and that the direct perception that the original mind is Buddha nature—had not yet realized the way to separate from attachment were often punished, scolded, and warned.

One day, a man named Yongjia Xuanjue arrived in Tào Khê. Xuanjue had become a monk at a young age and was well-versed in the Tiantai sect. He had awakened to his original mind through the study of the Vimalakirti Sutra.

When he met Hui-neng, he circled around him three times and then stood still, holding his staff.

Hui Neng reproached him, "A monk must possess three thousand dignified manners and eighty thousand subtle virtues. From where do you come, Venerable, to be so arrogant?"

Xuan Jue replied, "Birth and death are significant matters, and impermanence is swift; what is the purpose of politeness?"

Hui Neng replied, "Why not accept the truth that nothing is truly born and grasp the meaning that there is nothing known as swift?"

Xuan Jue replied, "In essence, there is no birth, and understanding is not swift."

Hui Neng exclaimed, "That's correct! That's correct!"

Then Hui Neng and Xuan Jue engaged in conversation, growing increasingly interested in each other's thoughts. Eventually, Xuan Jue expressed a desire to leave, to which Hui Neng inquired, "Why are you leaving so soon?"

Hui Neng invited Xuan Jue to spend the night with him at Tào Khê to enjoy tea and discuss the Dharma.

Later, Xuan Jue composed the poem "Song of Enlightenment," which consists of the following four lines.

The supreme learner is a contemplative individual, leading a life of non-action,

neither dispelling delusions nor pursuing the truth.

The essence of ignorance is, in fact, Buddha nature.

Illusions that lack a physical form are also the Dharma body.

  

NOON: Hương Tích Rice

 

That day, Vimalakirti welcomed Bảo Tích and five hundred princes, young masters, and sons of noble families—future lay Bodhisattvas—into his empty house in Vaishali.

While everyone eagerly engaged in discussions about profound topics such as the conditioned and the unconditioned, birth and death, and nirvana, Sariputra, the Buddha's most astute disciple, interjected to ground the conversation, "It's almost time to eat. What will these Bodhisattvas have for their meal?"

Vimalakirti said, “Please wait a moment. I will provide you unprecedented food.” Unprecedented food? For these princes, young masters, and sons of affluent families, what is so unusual about delicacies? What is so remarkable about bird’s nest, red ginseng, peacock spring rolls, and phoenix sausage? They eagerly awaited Vimalakirti's arrival with this extraordinary food!

It turns out that Vimalakirti brought a delightful fragrance—a truly aromatic essence. The food was sourced from the Fragrant Land of the Fragrant Accumulation Buddha (Buddha Hương Tích). It was a type of food that had never existed before.

Vimalakirti then entered Samadhi, utilizing his supernatural powers to direct the assembly's gaze upward, beyond countless Buddha lands, as numerous as the grains of sand in forty-two Ganges Rivers. There, he revealed a realm known as Fragrant Accumulation, where Fragrant Accumulation Buddha resided. This land possessed a scent more exquisite than that of any beings or devas in the Buddha worlds across the ten directions. Throughout this realm, the fragrance manifested as towering structures. People walked upon fragrant ground, and the flower gardens and groves were entirely composed of delightful aromas. The scent of the food permeated and spread throughout the countless worlds in the ten directions.

 Vimalakirti requested only a small amount of leftover food from Fragrant Accumulation Buddha to entertain the princes and nobles in Vaishali that day. Just a small amount of leftover food was more than sufficient, for that extraordinary food emanated an endless fragrance from the heart of a virtuous person. It was the fragrance of virtue—a scent that could soar high, travel far, and defy the wind.

The fragrance of virtue cannot be acquired in a single day or through a brief session. This fragrance must be cultivated gradually, allowing it to fill, overflow, and become truly aromatic. Thanks to virtue, the Fragrant Accumulation Buddha's Fragrant Land did not require written teachings of the Dharma; instead, it communicated through scents. All living beings, inspired by the fragrance of virtue, embraced the precepts and engaged in righteous conduct. The Bodhisattvas in that realm each sat beneath fragrant trees, inhaling the exquisite aroma, and achieved all the Samādhis of the Treasury of Virtue. There was no need for confusing, controversial, or trivial discourse, for the Precepts serve as the foundation. With the Precepts, one can attain both Samadhi and Wisdom.

  

AFTERNOON: Bát Nhã Boat

 

Prajna always requires a boat; however, sometimes a raft suffices. Once, the Buddha told his disciples, "After crossing the river, why carry the raft and make it heavy?

Avalokitesvara, when the Bodhisattva practiced the profound Prajna Paramita, realized that the five aggregates are empty and transcended all suffering and hardship.

Prajna is always Prajna Paramita. Prajna paramita. Para: the other shore, the other side. Mita: to arrive. Paramita: to arrive at the other shore. In this context, the Prajna boat transports practitioners from the shore of delusion to the shore of enlightenment.

Can one reach the other shore and eliminate all suffering? Yes, but only by deeply practicing Prajna. The practitioner comes to clearly understand that the five aggregates are entirely empty. Furthermore, when one perceives the formless—the true essence beyond form—and lives in accordance with Prajna, then even the immense Mount Sumeru can fit into a mustard seed, and the waters of the four vast oceans can be contained within a single pore. Once the principle encounters no obstacles, all things become unobstructed. When both principle and phenomena are free from obstruction, then all things are unobstructed.

But once the boat has departed, it will return, and once it has crossed over, it will come back. The Bodhisattvas, adhering to their vows for the benefit of others, remain in the realm of Samsara, traversing between the two shores. The boat leisurely moves back and forth, yet it also resides solely in our hearts and minds.

The boat continues to move, sometimes downstream and sometimes upstream. The practitioner must row and steer; it is not easy to relinquish control of the rudder. The practitioner must cultivate the qualities of generosity, adherence to precepts, patience, diligence, meditation, and wisdom.

Prajna is the Knowing before the known. Pra is before; Jna is to know. The knowing before the known is the present awareness—an understanding of reality as it truly is, free from reasoning, criticism, or discrimination. Consequently, it embodies wisdom and transcends mere consciousness. In other words, consciousness has evolved into wisdom.

 

 

 

NIGHT: Lăng Già Moon

 

Never before had the Buddha laughed so loudly, so heartily, and so powerfully, like a lion king in the middle of a full moon night in Lankavatara, surrounded by the lord of the island, Ravana, and his subjects, along with the presence of thousands of Bodhisattvas. The Buddha preached the truth to help people transform their consciousness, transcending theoretical knowledge and the common samadhi to reside in the Immovable Ground, the Good Wisdom Ground, and the Dharma Cloud Ground—the highest realm—entering the Tathagatagarbha through self-realization from within.

In the heart of the mountain peak on the island of Lanka, as he observed the moonlight dancing on the waves—breaking and reforming with each swell, Buddha laughed heartily. The moonlight shattered and coalesced, then shattered again, only to gather once more. All of this resembled flowers in the void, bird footprints tracing the sky, and a picture of clouds forming and dissolving. Such is the nature of existence. The world, with its myriad colors and shades, is solely a creation of the mind. It is akin to an illusion, a dream, a bubble, morning dew, or a flash of lightning. Beneath this surface lies the Tathagatagarbha, the Alaya, which remains serene "as it is, motionless." Only our discerning consciousness disturbs us. That pure and natural mind remains still—unmoved, unborn, undying, unstained, unpure, unincreasing, and undiminishing.

Because consciousness arises, phenomena manifest. The world exists solely within our own consciousness. Living beings are illusions conjured by the magician—ourselves—where we create conditions, cling to them, and ultimately suffer.

Bodhisattvas perceive and understand in this manner: they recognize that everything is a creation of the mind and that living beings are illusions we create ourselves. The mind then discriminates, clings to these illusions, and experiences suffering. Therefore, they communicate this truth directly to everyone. Such direct communication embodies true compassion—free from concealment, deception, or intimidation. When practitioners recognize the illusory nature of existence, compassion naturally arises. Furthermore, because wisdom does not cling to either existence or non-existence, profound compassion emerges.

When the mind is at rest, afflictions cease to exist, and consequently, obstacles are eliminated. When all mental discriminations are halted, disturbances will no longer occur. Within us lies the Tathagatagarbha, the seed of wisdom encompassing all dharmas, and wisdom resembles a round, full, and boundless mirror.

Seeing and understanding the Tathagata in this way, one lives with the Tathagata, lives in the Tathagata, and lives alongside the Tathagata.

 .

Con Đường An Lạc:
--- Chương 1: “Sách Bỏ Túi” Cho Người Cao Tuổi. Con Đường An Lạc:
https://vietbao.com/a320354/song-ngu-bai-1-sach-bo-tui-cho-nguoi-cao-tuoi-con-duong-an-lac 
---- Chương 2: Con Đường An Lạc: Tuổi già học Phật:
https://vietbao.com/a320365/tuoi-gia-hoc-phat 
---- Chương 3: Song ngữ: Thả lỏng toàn thân thả lỏng chưa?
https://vietbao.com/a320413/tha-long-toan-than-tha-long-chua- 
---- Chương 4: Học cách Phật dạy
https://vietbao.com/a320458/bai-4-hoc-cach-phat-day 
---- Chương 5: Thực hành 10 Hạnh Nguyện Phổ Hiền
https://vietbao.com/a320477/sach-bo-tui- 
---- Chương 6: Học cách Phật dạy con
https://vietbao.com/a320511/sach-bo 
--- Chương 7: Sáng, Trưa, Chiều, Tối
https://vietbao.com/a320604/s 

 

 

…. o ….

 

 



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thống Đốc California Gavin Newsom hôm Thứ Ba, 26 tháng 5 tuyên bố rằng ông sẽ nới lỏng các hạn chế của tiểu bang đối với ngành hớt tóc và hair salon cho một số quận trong tiểu bang đáp ứng một số tiêu chuẩn về sức khỏe. Tiểu bang, đã đưa ra một trong những lệnh ở trong nhà trên toàn tiểu bang sớm nhất vào giữa tháng 3, đã và đang tái mở cửa kinh tế toàn tiểu bang trong các giai đoạn. Tiểu bang hiện đang ở giai đoạn 2 của kế hoạch tái mở cửa, mà đã cho phép các cơ sở kinh doanh bán lẻ và việc làm sản xuất với những điều chỉnh.
Hoa Kỳ đang trải qua sự xuống dốc kinh tế sâu nhất trong lịch sử hiện đại. Hàng chục triệu người Mỹ đã khai thất nghiệp khi vi khuẩn corona làm đóng các cơ sở kinh doanh và buộc các công ty phải sa thải nhân viên. Người dân cần sự hỗ trợ để giúp họ vượt qua cơn khủng hoảng bằng một vài phương cách chính yếu -- tiền mặt để đáp ứng tức thì nhu cầu tài chánh, chăm sóc sức khỏe để bảo vệ khi họ bị bệnh và có nhà ở nếu họ không thể trả tiền thuê nhà. Dù các nỗ lực kích cầu liên bang lên tới 2 ngàn tỉ đô la – cho đến nay – thì một số người bị ảnh hưởng gần đây cũng sẽ rơi vào sự đổ vỡ. Là học giả nghiên cứu cách người dân ghi danh vào các chương trình công cộng, tôi và đồng nghiệp Cecille Joan Avila, người nghiên cứu các chương trình xã hội liên quan đến sửc khỏe phụ nữ, đã nhìn thấy bằng cách nào các chính sách có thiện chí đôi khi có thể thất bại trong việc hỗ trợ những người cần giúp. Chúng tôi đã tìm hiểu xâu xa sự khó khăn ra làm sao đối với người dân để điều hướng theo cách của họ
Sắc lệnh hành pháp kiểm tra ranh giới của thẩm quyền của Bạch Ốc. Trong một cuộc đấu thầu hợp pháp lâu dài, nó tìm cách hạn chế sức mạnh của các nền tảng truyền thông xã hội lớn bằng cách diễn giải lại một đạo luật quan trọng năm 1996 nhằm che chở các trang web và công ty kỹ thuật khỏi các vụ kiện. Nhưng các chuyên gia pháp lý ở cả phái hữu và tả đã nêu ra những lo ngại nghiêm trọng về đề xuất này. Họ nói rằng nó có thể vi hiến vì nó có nguy cơ xâm phạm quyền Tu Chính Án Thứ Nhất của các công ty tư nhân và vì nó cố gắng phá vỡ hai nhánh chính phủ khác. "(Trump) đang cố gắng tự đánh cắp sức mạnh của tòa án và Quốc Hội để viết lại hàng thập niên luật đã được ấn định," theo Thượng Nghị Sĩ Dân Chủ Ron Wyden của tiểu bang Oregon, kiến trúc sư của luật pháp mà sắc lệnh tìm cách giải thích lại. "Ông ấy quyết định những gì hợp pháp dựa trên những gì có lợi cho ông ấy."
400,000 công nhân có thể sẽ trở lại làm việc khi Thành Phố New York bắt đầu giai đoạn một của việc tái mở cửa trong tháng 6, khi trung tâm đại dịch toàn quốc của khủng hoảng xem xét việc bắt đầu phục hồi lâu dài từ cuộc phong tỏa vi khuẩn corona. Thị Trưởng Bill de Blasio hôm Thứ Năm, 28 tháng 5 đã phát họa các hướng dẫn cho các cơ sở kinh doanh sẽ được phép mở cửa trong những tuần lễ sắp tới, và phỏng đoán rằng từ 200,000 tới 400,000 người sẽ được báo cáo làm việc tiếp xúc trực tiếp với người khi việc tái mở cửa bắt đầu.
Một lần nữa Hải Quân Hoa Kỳ đã thách thức tuyên bố chủ quyền của TQ tại Biển Đông hôm Thứ Năm, 28 tháng 5 năm 2020, khi chiếc khu trục hạm phi đạn dẫn đường loại Arleigh Burke là USS Mustin đã vào gần Quần Đảo Hoàng Sa, theo bản tin CNN cho biết. Hải Quân Hoa Kỳ đã 2 lần đưa tàu chiến vào Hoàng Sa và Trường Sa trong tháng trước để thách thức tuyên bố chủ quyền của TQ tại Biển Đông và thực hiện một hoạt động tương tự gần Hoàng Sa trong tháng 3.
Hơn 10,000 công nhân tại công ty Chí Hùng của chủ Đài Loan chế tạo giày thể thảo tại thị xã Tân Uyên, thỉnh Bình Dương đã đình công sang ngày thứ 3, với 4 người bị bắt và một người bị thương, theo bản tin của Đài Á Châu Tự Do (RFA) cho biết hôm 28 tháng 5 năm 2020.
Chuyện kỳ thị chủng tộc ở Mỹ không có gì mới. Nó đã tồn tại hàng nhiều thế kỷ và sẽ còn tồn tại bao lâu còn có sự sống chung giữa các màu da Trắng, Đen, Vàng, Nâu trong cùng một quốc gia có tên gọi Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Bất kể luật pháp nước Mỹ đã có và hiện có những biện pháp mạnh mẽ đối phó với vấn nạn kỳ thị. Bất kể các hệ thống truyền thông, các mạng lưới xã hội thường xuyên lên án các hành vi kỳ thị dù xuất hiện dưới bất cứ hình thức nào.
Hãng tiện ích sẽ tổ chức buổi giới thiệu thông tin về công việc này trên màn hình vào ngày 29 tháng Năm với sự hỗ trợ của các tổ chức cộng đồng người Mỹ gốc Á.
Phát ngôn viên của đoạn phim ảnh được Trump tweet lại nói ông ta không thật sự có ý nói theo nghĩa đen như thế - nhưng sau đó lại cho rằng ông ta có ý đó, ít nhất là một phần của phát biểu này. Và đây chính là phần thuộc về thói quen của Trump. Nếu đã từng có một tweet được thiết kế riêng để quảng bá bởi Tổng thống Trump, thì đó có thể là video này: Một video của một tài khoản có tên là “Cowboys for Trump”, trong đó phát ngôn viên bắt đầu bằng cách nói, “Đảng Viên Dân Chủ tốt duy nhất là một Đảng Viên Dân Chủ đã chết”. Phát ngôn viên này nhanh chóng nói thêm rằng anh ấy không có ý nói trực tiếp theo nghĩa đen như thế.
Hồi cận Tết năm Thìn, Marianne Brown (Guardian Weekly) có bài “Vietnam’s parents want a dragon son.” Trời! Tưởng gì, chớ cả Tầu lẫn Ta ai mà không muốn có con trai tuổi Rồng. Nhâm Thìn, tất nhiên, lại càng bảnh dữ nữa. Nam nhâm nữ qúi thì sang mà lị. Theo tuviso.com: “Tuổi Nhâm Thìn có nhiều hy vọng tốt đẹp về vấn đề tình duyên và tương lai về cuộc sống, có phần tốt đẹp về tình cảm và tài lộc, vào trung vận và hậu vận thì được nhiều tốt đẹp về hạnh phúc, công danh có phần lên cao.” Hổng dám “cao” đâu! Phạm Viết Đào, Trần Đức Thạch, Nguyễn Tường Thụy, Phạm Thành đều nhâm thìn hết trơn đó chớ nhưng hậu vận – rõ ràng – lận đận (thấy bà luôn) chớ có “tốt đẹp” hay “hạnh phúc” khỉ mốc gì đâu. Cả bốn ông đều đã (hoặc đang) trong hộp!
Các Trung Tâm Kiểm Soát và Ngăn Ngừa Bệnh Tật Hoa Kỳ (CDC) đã công bố lộ đồ rõ ràng trong tuần này phát họa điểu mà những người đã thử nghiệm dương tính với vi khuẩn corona – dù họ có cho thấy các triệu chứng hay không – cần làm để chận đứng sự lây lan cho người khác. Cơ quan này nói rằng những người nào “nghĩ hay biết họ đã bị dính COVID-19 và đã có các triệu chứng” thì phải chờ 10 ngày sau khi các triệu chứng xuất hiện để gặp người khác, gồm 3 ngày không sốt. Những người thử nghiệm dương tính nhưng không cho thấy các triệu chứng thì cũng nên chờ 10 ngày sau khi thử nghiệm. Những người có hệ thống miễn nhiễm yếu thì có thể cần chờ lâu hơn.
LOS ANGELES – Các quận tại California gồm Ventura, Orange, và San Bernardino đã nhận được sự chấp thuận của tiểu bang cho phép các tiệm hair salons, hớt tóc, và những tiệm chải chuốt tái mở cửa, dù theo “các điều chỉnh nghiêm ngặt,” theo bản tin của Đài CBSLA cho biết. Quận Los Angeles không nằm trong danh sách 47 quận của Thống Đốc Gavin Newsom có đủ điều kiện để tái mở cửa, nhưng các giám sát viên quận cho thấy những hạn chế đó sẽ sớm được gỡ bỏ. Lời tuyên bố là thay đổi chính thức mới nhất để nới lỏng các lệnh ở trong nhà được đưa ra vào tháng 3 nhằm giúp ngăn chận sự lây lan của COVID-19.
Cảnh sát Hồng Kông đã bắt ít nhất 300 người trong các cuộc biểu tình cả ngày và nhiều vụ đụng độ khắp thành phố, khi nhiều cư dân xuống đường biểu tình chống dự luật gây tranh cãi nhằm đưa lãnh thổ này vào tròng kiểm soát của Bắc Kinh thêm nữa, theo bản tin của báo The Guardian cho biết hôm 27 tháng 5 năm 2020. Cảnh sát đã bắn hơi cay vào đám đông khi nhiều người hô to các khẩu hiệu. Nhiều cảnh sát đã chận và truy tìm các cư dân, gồm nhiều học sinh, và bao vây những người biểu tình bị nghi ngờ, buộc họ phải ngồi xuống thành hàng trên mặt đất.
Cựu Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Joe Biden hôm Thứ Tư, 27 tháng 5 đã lên án “việc giết chết kinh khủng” của George Floyd, người đàn ông da đen 46 tuổi đã chết trong trại giam của Sở Cảnh Sát Minneapolis vào đầu tuần này, đòi điều tra quyền dân sự bởi Bộ Tư Pháp. “Sinh mạng của George Floyd là vấn đề. Đó là vấn đề lớn như sinh mạng của tôi. Đó là vấn đế lớn như sinh mạng của mọi người dân trong đất nước này. Ít nhất nó phải là như thế,” theo ông Biden, người được xem là sẽ được Đảng Dân Chủ đề cử tranh cử TT, nói vào lúc khởi đầu của cuộc đối thoại với Thống Đốc Pennsylvania Tom Wolf.
Chính quyền CSVN đã bị Ủy Ban Về Bắt Giữ Người Tùy Tiện của Liên Hiệp Quốc (WGAD) tố cáo đã vi phạm luật pháp quốc tế khi bắt giam blogger Phan Kim Khánh và bỏ tù hơn 3 năm nay, theo bản tin của Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA) cho biết hôm 28 tháng 5 năm 2020.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.