Hôm nay,  

Eastern Stories And Legends - Phóng Tác Truyện Bản Sanh - Phần 6

22/02/202508:51:00(Xem: 3678)
blank 
Eastern Stories And Legends - Phóng Tác Truyện Bản Sanh - Phần 6

Tác giả: Marie L. Shedlock
Dịch giả: Nguyên Giác
.


26. The Dreamer in the Wood / Người mơ trong rừng
27. The Rice Measure / Đo lường gạo
28. The Poisonous Trees / Cây độc
29. The well-trained Elephant / Con voi được huấn luyện tốt
30. The wise Physician / Bác sĩ khôn ngoan
.
.... o ....

Truyện 26:
NGƯỜI MƠ TRONG RỪNG
 
Ngày xưa, Đức Phật sống một mình trong rừng, trong trạng thái xuất thần của thiền định. Đối với trái cây hoang dã, Ngài không đi xa hơn. Khi trái cây mọc trên cây, Ngài ăn trái cây; vào thời kỳ ra hoa, Ngài ăn hoa. Khi lá mọc, Ngài ăn lá. Khi không còn lá, Ngài ăn vỏ cây. Vì vậy, trong sự mãn nguyện tột cùng, Ngài đã sống một thời gian dài ở nơi đó.

Bấy giờ, Thiên đế Sakka, Vua của chư Thiên, xuất hiện trước mặt Ngài và muốn thử thách Ngài, nói : "Hãy nhìn người kia, toàn thân đen kịt, tinh thần của ta không thích hắn."
 
Bấy giờ, nhờ vào sự hiểu biết thần thông của mình, Đức Phật biết rằng Sakka đã nói chuyện với ngài. Và ngài trả lời và nói rằng: “Mặc dù có màu da đen, nhưng ta là một Bà-la-môn thực thụ. Một người đàn ông không đen vì lý do làn da bên ngoài của mình; chỉ có tội lỗi mới có thể khiến anh ta đen.”
 
Ngài đã nói như vậy với Sakka, và giống như ngài đã khiến mặt trăng mọc trên bầu trời. Và vị Thiên đế đã hỏi ngài muốn điều gì. Và Đức Phật đã nói là muốn lìa xa khỏi ba điều: ác ý, hận thù và tham lam.
 
Sau đó Thiên đế Sakka hỏi: “Những điều này có gì là xấu?”

Và Đức Phật trả lời, “Bởi vì lòng hận thù sẽ tăng từ nhỏ đến lớn và luôn đầy cay đắng. Và ác ý mang lại điều xấu. Đầu tiên là lời nói, sau đó là sự đụng chạm, tiếp theo là nắm đấm, sau đó là cây gậy, và cuối cùng là nhát kiếm lóe lên. Khi con người bị thúc đẩy bởi lòng tham, thì sẽ nảy sinh sự gian lận và lừa dối và sự truy đuổi nhanh chóng của chiến lợi phẩm man rợ——”

“Vậy thì,” Sakka nói, “hãy chọn một ân huệ khác.”
 
Đức Phật nói, “Hãy làm cho khu rừng nơi ta sống một mình, không có bệnh tật nào có thể làm hỏng sự bình yên của ta, hoặc phá vỡ sự tịch lặng thư thái của ta.”

Sau đó, Sakka nói, “Người đó không chọn bất cứ thứ gì liên quan đến thức ăn.” Và Sakka tặng cho một ân huệ khác.
 
Và Đức Phật nói, “Đừng để bất kỳ sinh vật nào bị tổn hại về thể xác hay tinh thần vì ta.”

Và Sakka khiến cây ra trái liên tục, và chào Đức Phật bằng cách chắp tay chạm vào đầu ngài, Sakka nói:
 
“Hãy ở đây mãi mãi không có bệnh tật,” và trở về ngai vàng của mình.
 
... ... ...

Story 26:
THE DREAMER IN THE WOOD
 
Now the Buddha once upon a time lived alone in the woods, in the ecstasy of meditation. For wild fruits he went no further afield. When fruit grew upon the tree, he ate the fruit; in time of flowers, he ate flowers. When the leaves grew, he ate leaves. When leaves were none, he ate the bark of trees. Thus, in the highest contentment he lived a long time in that place.

Now on a day, Sakka, the King of the gods, appeared before him and, wishing to test him, said: “Behold yon man, all black of hue, my spirit likes him not.”

Now by his divine insight the Buddha knew that Sakka spoke to him. And he made answer and said:

“Though black of hue, I am a true Brahmin. A man is not black by reason of his outer skin; only can sin make him black.” Thus he discoursed to Sakka, and it was as he had made the moon to rise in the sky. And the god asked him what boon he would crave.

And the Divine being asked to be free of three things: malice, hatred and greed.

Then Sakka: “What is bad in these things?” And Buddha made answer, “Because hatred grows from small to great and is ever full of bitterness. Malice brings evil. First word, then touch, next fist, then staff, and last the swordstroke flashing free. When men are urged by greed, then arise fraud and deceit and swift pursuit of savage loot——”

“Then,” said Sakka, “choose another boon.”

Then said the Buddha, “Grant that in the woods where I live alone, no disease may mar my peace, or break my ecstasy.”

Then said Sakka, “He chooseth no thing connected with food.” And he granted yet another boon.

And the Buddha said, “Let no creature ever be harmed for me in body or in mind.”

And Sakka made the tree bear fruit perennially, and saluting the Buddha by touching his head with joined hands, he said:

“Dwell here for ever free from disease,” and returned to his throne.

.... o ....

Truyện 27:
ĐO LƯỜNG GẠO

Ngày xưa, Brahmadatta là vua ở Benares, tại xứ Kāsi. Vào thời điểm đó, Bồ Tát của chúng ta là người định giá của ông vua. Ngài định giá cả ngựa, voi hoặc những thứ tương tự; và đồ trang sức, vàng hoặc những thứ tương tự; và sau khi làm như vậy, ngài thường định giá đúng cho những hàng hóa đó cho chủ sở hữu của chúng.

Bấy giờ, nhà vua rất tham lam. Và trong lòng tham của mình, vua nghĩ, "Nếu người định giá này định giá theo cách này, sẽ không lâu nữa toàn bộ tài sản trong nhà ta sẽ cạn kiệt. Ta sẽ chỉ định một người định giá khác."
 
Và mở cửa sổ, nhìn ra sân cung điện, vua thấy một người nông dân keo kiệt ngu ngốc đang đi qua sân. Vua quyết định chọn người định giá; và cho gọi anh ta đến, hỏi xem anh ta có muốn đảm nhiệm chức vụ này không. Người đàn ông nói rằng anh ta có thể; và nhà vua, với mục đích giữ kho báu của mình an toàn hơn, đã bổ nhiệm tên ngốc đó vào vị trí định giá.

Từ đó trở đi, gã đần độn đó thường định giá ngựa và voi, không quan tâm đến giá trị thực của chúng, mà quyết định theo ý mình; và vì anh ta đã được bổ nhiệm vào chức vụ này, theo ý mình, nên giá cả cũng vậy.
 
Bấy giờ, một người buôn ngựa mang năm trăm con ngựa từ thảo nguyên phía bắc đến. Nhà vua sai người đi gọi người đó đến và định giá những con ngựa. Và ông định giá năm trăm con ngựa chỉ bằng một đấu gạo, và ngay lập tức ra lệnh đưa cho người buôn ngựa một đấu gạo và nhốt những con ngựa vào chuồng. Sau đó, người buôn ngựa đến gặp người định giá trước đó, kể lại sự việc và hỏi ông ta nên làm gì.
 
"Hãy hối lộ người đó", Bồ Tát nói, "và hỏi ông ta thế này: 'Bây giờ chúng tôi biết rằng rất nhiều ngựa của chúng tôi đáng giá một đấu gạo, nhưng chúng tôi muốn biết từ ông một đấu gạo đáng giá bao nhiêu. Ông có thể định giá cho chúng tôi, đứng trước mặt nhà vua không?' Nếu ông ta nói có thể, hãy đi cùng ông ta vào cung điện của hoàng gia, và tôi cũng sẽ ở đó."
 
Người buôn ngựa chấp nhận lời khuyên của Bồ Tát, đến gặp người định giá, hối lộ ông ta và đưa cho ông ta gợi ý. Ông ta nhận hối lộ và nói, "Được thôi! Tôi có thể định giá số gạo của ông cho ông."

"Được thôi, vậy thì chúng ta hãy đến phòng tiếp kiến," ông ta nói; và dẫn ông ta đi cùng, vào gặp nhà vua. Bồ Tát và nhiều bộ trưởng khác cũng đến đó.

Người buôn ngựa cúi đầu trước nhà vua và nói, "Thưa nhà vua, tôi thừa nhận rằng một đấu gạo là giá trị của năm trăm con ngựa; nhưng nhà vua có vui lòng hỏi người định giá giá trị của đấu gạo là bao nhiêu không?"
 
Nhà vua, không biết chuyện gì đã xảy ra, hỏi, "Bây giờ, người định giá, năm trăm con ngựa đáng giá bao nhiêu?"
"Một đấu gạo, thưa Đức Vua!" ông ta nói.
"Tốt lắm! Nếu năm trăm con ngựa chỉ đáng giá một đấu gạo, thì đấu gạo đó đáng giá bao nhiêu?"
"Một đấu gạo đáng giá tất cả Benares, cả bên trong và bên ngoài tường thành", gã ngốc đó trả lời.
 
Câu chuyện kể rằng đầu tiên ông định giá những con ngựa bằng một đấu gạo chỉ để làm vui lòng nhà vua; và sau đó, khi ông đã nhận hối lộ của người bán hàng, ông định giá đấu gạo đó bằng toàn bộ Benares.
 
Vào thời điểm đó, chu vi của thành lũy Benares là mười hai dặm cổ, và đất đai ở vùng ngoại ô của nó rộng ba trăm dặm cổ. Tuy nhiên, gã ngốc đó đã định giá thành phố Benares vĩ đại như vậy, cùng với tất cả các vùng ngoại ô của nó, bằng một đấu gạo!

Nghe vậy, các bộ trưởng vỗ tay, cười và nói, “Chúng tôi từng nghĩ rằng trái đất rộng lớn và vương quốc của Nhà vua giống nhau đến mức không thể định giá được; nhưng thành phố hoàng gia vĩ đại và nổi tiếng này, theo lời ông ta, chỉ đáng giá một đấu gạo! Ôi, trí tuệ sâu sắc của người định giá! Làm sao ông ta có thể tại vị lâu như vậy? Thực sự ông ta chỉ phù hợp với Nhà vua của chúng ta!” Vì vậy, họ cười nhạo ông ta.
 
Sau đó, Bồ Tát đã đọc bài kệ này:

“Một đấu gạo có giá trị gì?
Toàn bộ Benares và vùng phụ cận!
Và năm trăm con ngựa có giá trị gì?
Cùng một đấu gạo đó!”

Sau đó, nhà vua cảm thấy xấu hổ, đuổi tên ngốc đó ra ngoài và bổ nhiệm Bồ Tát vào chức vụ thẩm định giá. Và theo thời gian, Bồ Tát đã qua đời theo những nghiệp của mình.
 
... ... ...

Story 27:
THE RICE MEASURE

Long ago, Brahmadatta was king in Benares, in the land of Kāsi. At that time our Bodisat was his valuer. He valued both horses, elephants, or things of that kind; and jewelry, gold, or things of that kind; and having done so, he used to have the proper price for the goods given to the owners thereof.

Now the King was covetous. And in his avarice he thought, “If this valuer estimates in this way, it will not be long before all the wealth in my house will come to an end. I will appoint another valuer.”

And opening his window, and looking out into the palace yard, he saw a stupid miserly peasant crossing the yard. Him he determined to make his valuer; and sending for him, asked if he would undertake the office. The man said he could; and the King, with the object of keeping his treasure safer, established that fool in the post of valuer.

Thenceforward the dullard used to value the horses and elephants, paying no regard to their real value, but deciding just as he chose; and since he had been appointed to the office, as he decided, so the price was.

Now at that time a horse-dealer brought five hundred horses from the northern prairies. The King sent for that fellow, and had the horses valued. And he valued the five hundred horses at a mere measure of rice, and straightway ordered the horse-dealer to be given the measure of rice, and the horses to be lodged in the stable. Then the horse-dealer went to the former valuer, and told him what had happened, and asked him what he should do.

“Give a bribe to that fellow,” said he, “and ask him thus: 'We know now that so many horses of ours are worth a measure of rice, but we want to know from you what a measure of rice is worth. Can you value it for us, standing in your place by the King?’ If he says he can, go with him into the royal presence, and I will be there too.”

The horse-dealer accepted the Bodisat’s advice, went to the valuer, and bribed him, and gave him the hint suggested. And he took the bribe, and said, “All right! I can value your measure of rice for you.”

“Well, then, let us go to the audience-hall,” said he; and taking him with him, went into the King’s presence. And the Bodisat and many other ministers went there also.

The horse-dealer bowed down before the King, and said, “I acknowledge, O King, that a measure of rice is the value of the five hundred horses; but will the King be pleased to ask the valuer what the value of the measure of rice may be?”

The King, not knowing what had happened, asked, “How now, valuer, what are five hundred horses worth?”

“A measure of rice, O King!” said he.

“Very good, then! If five hundred horses are worth only a measure of rice, what is that measure of rice worth?”

“The measure of rice is worth all Benares, both within and without the walls,” replied that foolish fellow.

For the story goes that he first valued the horses at a measure of rice just to please the King; and then, when he had taken the dealer’s bribe, valued that measure of rice at the whole of Benares. Now at that time the circumference of the rampart of Benares was twelve leagues, and the land in its suburbs was three hundred leagues in extent. Yet the foolish fellow estimated that so-great city of Benares, together with all its suburbs, at a measure of rice!

Hearing this the ministers clapped their hands, laughing, and saying, “We used to think the broad earth, and the King’s realm, were alike beyond price; but this great and famous royal city is worth, by his account, just a measure of rice! O the depth of the wisdom of the valuer! How can he have stayed so long in office? Truly he is just suited to our King!” Thus they laughed him to scorn.

Then the Bodisat uttered this stanza:

“What is a measure of rice worth?
All Benares and its environs!
And what are five hundred horses worth?
That same measure of rice!”
Then the king was ashamed, and drove out that fool, and appointed the Bodisat to the office of valuer. And in course of time the Bodisat passed away according to his deeds.
 
.... o ....

Truyện 28:
CÂY ĐỘC
 
Ngày xưa, khi Brahmadatta trị vì ở Benares, Bồ Tát sinh ra là một thương gia. Khi lớn lên và buôn bán với năm trăm cỗ xe ngựa, một ngày nọ, ngài đến nơi con đường dẫn qua một khu rừng lớn.

Dừng lại ở ngoại ô, ngài tập hợp đoàn lữ hành và nói với họ như sau: “Cây độc mọc trong khu rừng này. Hãy cẩn thận đừng nếm bất kỳ lá, hoa hoặc quả lạ nào mà không hỏi ý kiến ta trước.” Tất cả đều hứa sẽ cẩn thận; và cuộc hành trình vào rừng bắt đầu.

Bây giờ ngay bên trong ranh giới khu rừng có một ngôi làng, và ngay bên ngoài ngôi làng đó mọc một cây Quả gì. Cây Quả gì đó giống hệt một quả xoài về thân, cành, lá, hoa và quả. Và không chỉ về hình dáng bên ngoài, mà cả về hương vị và mùi, các quả này — cả chín và chưa chín — đều giống như quả xoài. Nếu ăn phải, nó là một loại thuốc độc chết người và gây tử vong ngay lập tức.
 
Bấy giờ, một số kẻ tham lam đi trước đoàn lữ hành, đến cây này và tưởng đó là xoài nên đã ăn quả của nó. Nhưng những kẻ khác lại nói, "Chúng ta hãy hỏi thủ lĩnh của chúng ta trước khi ăn"; và họ dừng lại bên cây, tay cầm quả, cho đến khi ông ta đi lên.

Nhận ra đó không phải là xoài, ông ta nói: "'Xoài' này là cây ăn Quả gì; đừng chạm vào quả của nó."

Sau khi ngăn họ ăn, Bồ Tát quay sang chú ý đến những người đã ăn. Đầu tiên, ngài cho họ uống thuốc gây nôn, rồi đưa cho họ bốn món ăn ngọt; để cuối cùng họ đã hồi phục.
 
Trước đây, các đoàn lữ hành đã dừng lại dưới gốc cây này và đã chết vì ăn phải loại quả độc mà họ nhầm là xoài.

Ngày hôm sau, dân làng sẽ đến và thấy họ nằm chết ở đó, họ sẽ nắm bàn chân, ném xác họ vào một nơi bí mật, mang theo tất cả đồ đạc của đoàn lữ hành, xe ngựa và tất cả mọi thứ.

Và vào ngày chúng ta kể câu chuyện này, những người dân làng này đã không vội vã đến cây vào lúc rạng sáng để lấy chiến lợi phẩm mà họ mong đợi.

"Những con bò phải là của chúng tôi", một số người nói. "Và chúng tôi sẽ có những chiếc xe ngựa", những người khác nói; trong khi những người khác lại tuyên bố hàng hóa là phần của họ. Nhưng khi họ đến cây trong tình trạng thở hổn hển, thì thấy toàn bộ đoàn lữ hành vẫn còn sống và khỏe mạnh!
 
“Làm sao các ngươi biết đây không phải là cây xoài?” những người dân làng thất vọng hỏi.
“Chúng tôi không biết,” đoàn lữ hành nói; “Chỉ có thủ lĩnh của chúng tôi biết.”

Vì vậy, những người dân làng đến gặp Bồ Tát và hỏi, “Người trí tuệ, ông đã làm gì để phát hiện ra cây này không phải là cây xoài?”

“Có hai điều đã nói với tôi,” Bồ Tát trả lời, và ngài đọc bài kệ này:

“Khi gần một ngôi làng có một cái cây mọc lên
Không khó để trèo, điều đó rõ ràng với tôi,
Tôi cũng không cần phải chứng minh thêm để biết,
—Không có trái cây lành mạnh nào có thể mọc trên đó!”

Và sau khi giảng dạy Chân lý cho đám đông tụ họp, ngài đã kết thúc cuộc hành trình của mình trong sự an toàn.

... ... ...

Story 28:
 
THE POISONOUS TREES

Once upon a time when Brahmadatta was reigning in Benares, the Bodhisatta was born a merchant. When he grew up, and was trading with five hundred wagons, he came one day to where the road led through a great forest. Halting at the outskirts, he mustered the caravan and addressed them thus:—“Poison-trees grow in this forest. Take heed that you taste no unfamiliar leaf, flower, or fruit without first consulting me.” All promised to take every care; and the journey into the forest began. Now just within the forest-border stands a village, and just outside that village grows a What-fruit tree. That What-fruit tree exactly resembles a mango alike in trunk, branch, leaf, flower, and fruit. And not only in outward semblance, but also in taste and smell, the fruit—ripe and unripe—mimics the mango. If eaten, it is a deadly poison, and causes instant death.

Now some greedy fellows, who went on ahead of the caravan, came to this tree and, taking it to be a mango, ate of its fruit. But others said, “Let us ask our leader before we eat”; and they accordingly halted by the tree, fruit in hand, till he came up. Perceiving that it was no mango, he said:—“This 'mango’ is a What-fruit tree; don’t touch its fruit.”

Having stopped them from eating, the Bodhisatta turned his attention to those who had already eaten. First he dosed them with an emetic, and then he gave them the four sweet foods to eat; so that in the end they recovered.

Now on former occasions caravans had halted beneath this same tree, and had died from eating the poisonous fruit which they mistook for mangoes. On the morrow the villagers would come, and seeing them lying there dead, would fling them by the heels into a secret place, departing with all the belongings of the caravan, wagons and all.

And on the day too of our story these villagers failed not to hurry at daybreak to the tree for their expected spoils. “The oxen must be ours,” said some. “And we’ll have the wagons,” said others;—whilst others again claimed the wares as their share. But when they came breathless to the tree, there was the whole caravan alive and well!

“How came you to know this was not a mango tree?” demanded the disappointed villagers. “We didn’t know,” said they of the caravan; “it was our leader who knew.”

So the villagers came to the Bodhisatta and said, “Man of wisdom, what did you do to find out this tree was not a mango?”

“Two things told me,” replied the Bodhisatta, and he repeated this stanza:—

“When near a village grows a tree
Not hard to climb, ’tis plain to me,
Nor need I further proof to know,
—No wholesome fruit thereon can grow!”
And having taught the Truth to the assembled multitude, he finished his journey in safety.

.... o ....

Truyện 29:
CON VOI ĐƯỢC HUẤN LUYỆN TỐT
 
Ngày xưa, khi vua Magadha đang trị vì tại Rajagaha ở Magadha, Bồ Tát được sinh ra là một con voi. Ngài toàn thân trắng muốt và được tô điểm bằng mọi vẻ đẹp. Và vì vẻ đẹp của ngài, nhà vua đã phong ngài làm voi của quốc vương.

Một ngày lễ, nhà vua đã trang hoàng thành phố như một thành phố của các vị thần và cưỡi trên lưng voi với tất cả các trang phục, diễn hành long trọng quanh thành phố với sự hộ tống của một đoàn tùy tùng lớn. Và dọc theo con đường, mọi người đều xúc động khi nhìn thấy con voi vô song đó và thốt lên, "Ồ, dáng đi uy nghiêm làm sao! Thật cân đối! Thật đẹp! Thật duyên dáng! Một con voi trắng như vậy xứng đáng với một vị vua toàn năng".

Tất cả những lời khen ngợi về con voi của mình đã đánh thức lòng đố kỵ của nhà vua và ông quyết định ném nó xuống vực thẳm và giết chết. Vì vậy, ông đã triệu tập người quản tượng và hỏi liệu anh ta có gọi đó là một con voi được huấn luyện không.
 
“Thật vậy, nó được huấn luyện tốt, thưa Bệ hạ,” người quản tượng nói.
“Không, nó được huấn luyện rất tệ.”
“Bệ hạ, nó được huấn luyện tốt.”
“Nếu nó được huấn luyện tốt như vậy, ngươi có thể đưa nó lên đỉnh núi Vepulla không?”
“Vâng, thưa Bệ hạ.”
“Vậy thì đi đi,” nhà vua nói. Và vua xuống khỏi con voi, để người quản tượng leo lên thay, và tự mình đi đến chân núi, trong khi người quản tượng cưỡi trên lưng voi lên đỉnh núi Vepulla.

Nhà vua cùng với các cận thần cũng leo lên núi, và ra lệnh dừng con voi ở bờ vực thẳm. “Bây giờ,” vua nói với người đàn ông, “nếu nó được huấn luyện tốt như ngươi nói, hãy để nó đứng trên ba chân.”
 
Và người quản tượng trên lưng voi chỉ chạm vào con vật bằng cái thúc của mình như một dấu hiệu và gọi nó, "Chào! Người đẹp của ta, hãy đứng trên ba chân."
"Bây giờ hãy bảo nó đứng trên hai chân trước," Nhà vua nói.

Và Đấng Bồ Tát Vĩ đại giơ hai chân sau lên và chỉ đứng trên hai chân trước.
"Bây giờ hãy đứng trên hai chân sau," Nhà vua nói, và con voi ngoan ngoãn giơ hai chân trước lên cho đến khi nó chỉ đứng trên hai chân sau.
"Bây giờ hãy đứng trên một chân," Nhà vua nói, và con voi đứng trên một chân.

Thấy rằng con voi không rơi xuống vực thẳm, Nhà vua kêu lên, "Bây giờ nếu có thể, hãy bảo nó đứng trên không trung."

Sau đó, người quản tượng tự nghĩ, “Cả Ấn Độ không thể sánh bằng chú voi này về sự huấn luyện xuất sắc. Chắc chắn nhà vua muốn bắt chú voi này ngã xuống vực và chết.”

Vì vậy, ông thì thầm vào tai chú voi, “Con trai của ta, nhà vua muốn con ngã xuống và chết. Ông ta không xứng đáng với con. Nếu con có sức mạnh để du hành trên không trung, hãy bay lên cùng ta trên lưng con và bay qua không trung đến Benares.”
 
Và Đấng Bồ Tát Vĩ Đại, được ban tặng những sức mạnh kỳ diệu đến từ Công Đức, ngay lập tức bay lên không trung.

Sau đó, người quản tượng nói, “Thưa bệ hạ, con voi này, sở hữu những sức mạnh kỳ diệu đến từ Công Đức, quá tốt đối với một kẻ ngốc vô giá trị như bệ hạ: không ai ngoài một vị Vua thông thái và tốt bụng xứng đáng làm chủ nó. Khi những kẻ vô giá trị như bệ hạ có được một con voi như thế này, họ không biết giá trị của nó, và vì vậy họ mất con voi của mình, và tất cả vinh quang và sự lộng lẫy còn lại của họ.”

Nói như vậy, người quản tượng ngồi trên cổ voi, đọc bài kệ này:
“Địa vị cao quý sinh ra một kẻ ngốc lớn;
Nó chứng tỏ kẻ thù không đội trời chung của chính mình và những người khác.”
 
“Và bây giờ, từ biệt,” ông nói với Nhà vua khi kết thúc lời khiển trách này; và bay lên không trung, ông bay đến Benares và dừng lại giữa không trung, trên sân hoàng gia.

Và có một sự khuấy động lớn trong thành phố và tất cả đều kêu lên, “Hãy nhìn con voi nhà nước đã bay qua không trung đến với Nhà vua của chúng ta và đang lơ lửng trên sân hoàng gia.” Và với tất cả sự vội vã, tin tức cũng được truyền đến Nhà vua, người đã ra ngoài và nói, “Nếu bạn đến vì lợi ích của tôi, hãy đáp xuống mặt đất.”

Và Bồ tát hạ xuống từ không trung. Sau đó, người quản tượng bước xuống và cúi chào Nhà vua, và để trả lời câu hỏi của Nhà vua, kể lại toàn bộ câu chuyện về việc họ rời khỏi Rajagaha. “Thật tốt khi bạn đến đây,” Nhà vua nói; và trong niềm vui của mình, ông đã trang trí thành phố và đặt con voi vào chuồng của mình.

Sau đó, ông chia vương quốc của mình thành ba phần, và trao một phần cho Bồ Tát, một phần cho người quản tượng, và một phần ông giữ lại cho mình. Và quyền lực của ông tăng lên kể từ ngày Bồ Tát đến cho đến khi toàn bộ Ấn Độ nằm dưới quyền thống trị của ông. Là Hoàng đế Ấn Độ, ông rất nhân từ và làm nhiều việc thiện khác cho đến khi ông qua đời để theo nghiệp của mình.

... ... ...

Story 29:
THE WELL-TRAINED ELEPHANT
 
Once upon a time when King Magadha was ruling in Rajagaha in Magadha, the Bodhisatta was born an elephant. He was white all over and graced with all beauty. And because of his beauty the King made him his state elephant.

One festal day the King adorned the city like a city of the devas and, mounted on the elephant in all its trappings, made a solemn procession round the city attended by a great retinue. And all along the route the people were moved by the sight of that peerless elephant to exclaim, “Oh, what a stately gait! what proportions! what beauty! what grace! such a white elephant is worthy of an universal monarch.” All this praise of his elephant awoke the King’s jealousy and he resolved to have it cast over a precipice and killed. So he summoned the mahout and asked whether he called that a trained elephant.

“Indeed he is well trained, Sire,” said the mahout. “No, he is very badly trained.” “Sire, he is well trained.” “If he is so well trained, can you get him to climb to the summit of Mount Vepulla?” “Yes, Sire.” “Away with you, then,” said the King. And he got down from the elephant, making the mahout mount instead, and went himself to the foot of the mountain, whilst the mahout rode on the elephant’s back up to the top of Mount Vepulla. The King with his courtiers also climbed the mountain, and had the elephant halted at the brink of a precipice. “Now,” said he to the man, “if he is so well trained as you say, make him stand on three legs.”

And the mahout on the elephant’s back just touched the animal with his goad by way of sign and called to him, “Hi! my beauty, stand on three legs.” “Now make him stand on his two fore-legs,” said the King. And the Great Being raised his hind-legs and stood on his fore-legs alone. “Now on the hind-legs,” said the King, and the obedient elephant raised his fore-legs till he stood on his hind-legs alone. “Now on one leg,” said the King, and the elephant stood on one leg.

Seeing that the elephant did not fall over the precipice, the King cried, “Now if you can, make him stand in the air.”

Then thought the mahout to himself, “All India cannot show the match of this elephant for excellence of training. Surely the King must want to make him tumble over the precipice and meet his death.” So he whispered in the elephant’s ear, “My son, the King wants you to fall over and get killed. He is not worthy of you. If you have power to journey through the air, rise up with me upon your back and fly through the air to Benares.”

And the Great Being, endowed as he was with the marvelous powers which flow from Merit, straightway rose up into the air. Then said the mahout, “Sire, this elephant, possessed as he is with the marvelous powers which flow from Merit, is too good for such a worthless fool as you: none but a wise and good King is worthy to be his master. When those who are so worthless as you get an elephant like this, they don’t know his value, and so they lose their elephant, and all the rest of their glory and splendor.” So saying the mahout, seated on the elephant’s neck, recited this stanza:—

“Exalted station breeds a fool great woe;
He proves his own and others’ mortal foe.”
 
“And now, good-by,” said he to the King as he ended this rebuke; and rising in the air, he passed to Benares and halted in mid-air, over the royal courtyard. And there was a great stir in the city and all cried out, “Look at the state-elephant that has come through the air for our King and is hovering over the royal courtyard.” And with all haste the news was conveyed to the King, too, who came out and said, “If your coming is for my behoof, alight on the earth.” And the Bodhisatta descended from the air. Then the mahout got down and bowed before the King, and in answer to the King’s enquiries told the whole story of their leaving Rajagaha. “It was very good of you,” said the King, “to come here”; and in his joy he had the city decorated and the elephant installed in his state-stable. Then he divided his kingdom into three portions, and made over one to the Bodhisatta, one to the mahout, and one he kept himself. And his power grew from the day of the Bodisatta’s coming till all India owned his sovereign sway. As Emperor of India, he was charitable and did other good works till he passed away to fare according to his deserts.

.... o ....

Truyện 30:
BÁC SĨ KHÔN NGOAN
 
Kisāgotamī là tên của một cô gái trẻ, cuộc hôn nhân của cô với người con trai duy nhất của một người đàn ông giàu có đã diễn ra theo đúng kiểu truyện cổ tích. Cô có một đứa con, nhưng khi cậu bé xinh đẹp có thể chạy một mình, thì cậu bé đã chết.

Cô gái trẻ vì yêu đứa con mình,  đã ôm chặt đứa trẻ đã chết vào lòng và đi từ nhà này sang nhà khác, những người bạn thương hại cô, cầu xin họ cho cô thuốc để chữa bệnh.

Nhưng một vị khất sĩ Phật giáo, nghĩ rằng, "Cô ấy không hiểu", đã nói với cô: "Cô gái ngoan, bản thân tôi không có loại thuốc như cô yêu cầu, nhưng tôi nghĩ tôi biết một người có."
"Ồ, hãy cho tôi biết đó là ai!" Kisāgotamī nói.
"Đức Phật có thể cho cô thuốc: hãy đến gặp ngài", là câu trả lời.
 
Ngàng đến gặp Đức Phật Gautama, đảnh lễ ngài và nói: “Bạch Đức Thế Tôn, ngài có biết loại thuốc nào có thể chữa lành cho con của con không?”

“Có, ta biết một số loại thuốc,” Đức Phật nói.

Bây giờ theo thông lệ, bệnh nhân hoặc bạn bè của họ sẽ cung cấp các loại thảo mộc mà bác sĩ yêu cầu, vì vậy cô hỏi loại thảo mộc nào Ngài muốn. "Ta muốn một ít hạt cải", Đức Phật nói; và khi cô gái tội nghiệp nhiệt tâm hứa sẽ mang đến một số loại thuốc thông thường như vậy, Ngài nói thêm: "Cô phải lấy nó từ một ngôi nhà nào đó mà không có con trai, chồng, cha mẹ hoặc nô lệ nào chết".
 
"Tốt lắm", cô nói, và đi xin hạt cải, vẫn mang theo đứa con đã chết của mình.
Mọi người nói: "Đây là hạt cải, hãy lấy nó".
Nhưng khi cô hỏi, "Trong nhà bạn, có ai chết là con trai, hoặc chồng, cha mẹ hoặc nô lệ không?", họ trả lời: "Thưa bà! Bà nói gì vậy? Người sống thì ít, nhưng người chết thì nhiều".

Sau đó, cô đến những ngôi nhà khác, nhưng một người nói: "Tôi đã mất một đứa con trai"; một người khác nói: "Chúng tôi đã mất cha mẹ"; một người khác nữa nói: "Tôi đã mất nô lệ của mình".
 
Cuối cùng, không thể tìm thấy một ngôi nhà nào không có ai chết, tâm trí cô bắt đầu sáng tỏ, và, tập hợp lại quyết tâm, cô để lại xác đứa con đã chết của mình trong một khu rừng, và quay trở lại để tỏ lòng tôn kính Đức Phật.

Ngài nói với cô: "Cô có hạt cải không?"

"Thưa Đức Phật," cô trả lời, "Con không có; mọi người nói với con rằng người sống thì ít, nhưng người chết thì nhiều."

Sau đó, Ngài nói với cô về phần thiết yếu của giáo kt1 của ngài—tính vô thường của mọi thứ, cho đến khi những nghi ngờ của cô được xóa tan, và chấp nhận số phận của mình, côà trở thành đệ tử và bước vào Con đường, quả vị đầu tiên.
 
Những dòng sau đây (do Bà Rhys Davids dịch ra tiếng Anh), ghi trong Trưởng Lão Ni Kệ tuy là từ một số Ni trưởng khác nhưng cũng đúng cho trường hợp của Ni trưởng Kisāgotamī:

“Nơi đây! Từ trái tim con, mũi tên khó nhìn thấy  đã biến mất,
Mũi tên nằm ở đó đã được Ngài gỡ bỏ;
Và nỗi đau đớn thiêu đốt dành cho đứa con yêu dấu của con,
Cái đã đầu độc toàn bộ cuộc sống của con, đã chết.
Hôm nay trái tim con đã được chữa lành, nỗi khao khát của con còn ở lại,
Đã hoàn thiện sự giải thoát được thực hiện trong con.”
  .
GHI CHÚ CỦA NGUYÊN GIÁC: Tác giả Marie L. Shedlock (1854–1935) viết sách này, tuyển tập 30 truyện ngắn, là phóng tác theo các truyện bản sanh của Đức Phật, trừ truyện cuối cùng là truyện của nàng Kisāgotamī ẵm xác con xin Đức Phật Thích Ca cứu mạng con để rồi bà trở thành một Trưởng Lão Ni. Sách này có nhan đề tiếng Anh là "Eastern Stories and Legends" -- "Truyện và Huyền Thoại Phương Đông." Sách này được miễn tác quyền, theo luật pháp Hoa Kỳ.
.
... ... ...

Story 30:
THE WISE PHYSICIAN

Kisāgotamī is the name of a young girl, whose marriage with the only son of a wealthy man was brought about in true fairy-tale fashion. She had one child, but when the beautiful boy could run alone, it died. The young girl in her love for it carried the dead child clasped to her bosom, and went from house to house of her pitying friends asking them to give her medicine for it. But a Buddhist mendicant, thinking, “She does not understand,” said to her: “My good girl, I myself have no such medicine as you ask for, but I think I know of one who has.” “Oh, tell me who that is!” said Kisāgotamī. “The Buddha can give you medicine: go to him,” was the answer.

She went to Gautama, and doing homage to him, said: “Lord and Master, do you know any medicine that will be good for my child?”

“Yes, I know of some,” said the Teacher.

Now it was the custom for patients or their friends to provide the herbs which the doctors required, so she asked what herbs he would want. “I want some mustard-seed,” he said; and when the poor girl eagerly promised to bring some of so common a drug, he added: “You must get it from some house where no son, or husband, or parent, or slave has died.” “Very good,” she said, and went to ask for it, still carrying her dead child with her. The people said: “Here is mustard-seed, take it.” But when she asked, “In my friend’s house has any son died, or a husband, or a parent, or slave?” they answered: “Lady! what is this that thou sayest; the living are few, but the dead are many.” Then she went to other houses, but one said: “I have lost a son”; another, “We have lost our parents”; another, “I have lost my slave.”

At last, not being able to find a single house where no one had died, her mind began to clear, and, summoning up resolution, she left the dead body of her child in a forest, and returning to the Buddha paid him homage. He said to her: “Have you the mustard-seed?” “My Lord,” she replied, “I have not; the people tell me that the living are few, but the dead are many.” Then he talked to her on that essential part of his system—the impermanency of all things, till her doubts were cleared away, and, accepting her lot, she became a disciple and entered the first Path.

The following lines, ascribed to some of her Sisters in the Order and given in the Psalms (translated by Mrs. Rhys Davids), would apply to Kisāgotamī:—

“Lo! from my heart the hidden shaft is gone,
The shaft that nestled there hath he removed;
And that consuming grief for my dear child,
Which poisoned all the life of me, is dead.
To-day my heart is healed, my yearning stayed,
Perfected the deliverance wrought in me.”
.
NOTES BY NGUYÊN GIÁC: Author Marie L. Shedlock (1854–1935) wrote this book, a collection of 30 short stories adapted from the Buddha's Jataka tales, with the exception of the final story, which recounts the tale of Kisāgotamī holding her deceased child and pleading with the Buddha to restore her child's life. Ultimately, Kisāgotamī became an Elder Nun. The book is titled "Eastern Stories and Legends" and is exempt from copyright under United States law.

.
SOURCE: Eastern Stories and Legends, By Marie L. Shedlock
Publisher: E. P. Dutton & Company, 1920
https://www.gutenberg.org/ebooks/57380
.  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đại dịch COVID-19 nhắc nhở chúng ta phải quan tâm hơn đến vấn đề sức khoẻ, các biện pháp phòng tránh lây nhiễm, và những việc cần làm ngay để tăng khả năng đề kháng nếu như bị lây nhiễm. Trong buổi trình bày trực tuyến tới đây, chúng tôi giới thiệu một đề tài mà có lẽ có ảnh hưởng sâu rộng trong cộng đồng người Việt không riêng ở Hoa Kỳ mà còn ở mọi nơi, kể cả Việt Nam: Nguy cơ của hút thuốc lá đối với người nhiễm bệnh COVID-19. Hút thuốc làm tăng gấp đôi nguy cơ mắc bệnh nhiễm trùng đường hô hấp. Hút thuốc làm tăng gấp đôi nguy cơ mắc bệnh nặng hơn từ COVID-19.
Cựu Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Đảng Viên Cộng Hòa Colin Powell hôm Chủ Nhật nói rằng Tổng Thống Donald Trump đã “rời xa” Hiến Pháp, thêm vào danh sách ngày càng tăng các cựu viên chức quân đội hàng đầu là những người chỉ trích mạnh mẽ phản ứng của Tổng Thống đối với những người biểu tình trên toàn quốc chung quanh việc cảnh sát giết chết George Floyd, theo CNN cho biết hôm Chủ Nhật, 7 tháng 6. “Chúng ta có Hiến Pháp. Và chúng ta phải tuân theo Hiến Pháp đó. Và Tổng Thống đã rời xa nó,” Powell, vị đại tướng về hưu là người đã phục vụ dưới thời Tổng Thống George W. Bush, nói với Jake Tapper trong chương trình “State of the Union” của CNN.
Vào xế chiều Chủ Nhật, 7 tháng 6 năm 2020 đám đông người biểu tình tại Thủ Đô Washington đã tụ họp từ DuPont Circle tới đường 16th Street mà hiện có hàng chữ vĩ đại “Black Lives Matter” sơn dưới đường. Ở đó, những người biểu tình tham dự cùng nhau hô to khẩu hiệu, “Tôi không thể thở” – là những lời mà Floyd nói khi cảnh sát Minneapolis dè cổ ông ấy. Những người biểu tình tại Nam California, nhiều người trong số đó là gốc La Tinh, đã đi bộ từ thành phố Compton tới trụ sở của Sở Cảnh Sát Los Angeles. Một nhà tổ chức cho biết cuộc diễu hành trong trật tự và giữ khoảng cách xã hội.
• Cựu Tổng thống George W. Bush và Thượng nghị sĩ Mitt Romney của tiểu bang Utah sẽ không ủng hộ việc tái cử của Tổng thống Donald Trump và các nhân vật Cộng Hoà khác hiện đang suy tính việc bỏ phiếu cho Joe Biden - tờ New York Times tường thuật. • Tờ Times cho rằng Trump thất bại do việc xử lý các cuộc biểu tình phản đối sự tàn bạo của cảnh sát và việc xử lý không đúng về đại dịch coronavirus. • Một số nhân vật Cộng Hoà đã công khai bộc lộ tình trạng tiến thoái lưỡng nan của họ, trong khi cố gắng cân bằng lương tâm, ý thức hệ và sự rủi ro cho chính họ và chương trình nghị sự của họ.
Các viên chức y tế Quận Los Angeles báo báo 1,523 trường hợp mới bị lây vi khuẩn corona và 25 người thiệt mạng hôm Chủ Nhật, 7 tháng 6 năm 2020, nâng tổng số trường hợp bị lây lên 63,844 và 2,645 người thiệt mạng. Phần trăm người chết vì tình trạng sức khỏe tiềm ẩn vẫn ở mức cao, 93%, khiến bà Ferrer cảnh báo những người dân dễ bị tổn thương tiếp tục ở trong nhà ngay cả khi nhiều cơ sở kinh doanh bắt đầu mở và gọi bác sĩ lúc dấu hiệu đầu tiên của các triệu chứng. - Tính tới Chủ Nhật, trên toàn cầu có 6,799,713 trường hợp bị lây, với 397,388 người thiệt mạng. - Tại Hoa Kỳ hiện có 1,977,899 trường hợp bị lây, với 112,054 người thiệt mạng. - Tại California có 128,812 trường hợp bị lây, với 4,626 người thiệt mạng. - Tại Quận Cam thuộc miền Nam California có 7,440 trường hợp bị lây, với 177 người thiệt mạng.
Lời dịch giả: Đây là bức tâm thư của cựu tổng thống George W. Bush gởi người dân Mỹ trong lúc cả nước đang sôi sục sau cái chết của George Floyd.
Đối với người Việt Nam, cơm là thức ăn chánh. Người mình, dù sống bên nhà hay tại hải ngoại, ai ai cũng đều ăn cơm hết. Ngoại trừ thỉnh thoảng vì hoàn cảnh đặc biệt, chẳng hạn như lúc phải nằm bệnh viện hay chỉ vì muốn đổi món, đổi gu, trong đôi ba bữa chúng ta bèn bỏ cơm để ăn hủ tíu, phở, bún,macaroni, mì, bánh mì, khoai Tây, hoặc pizza vv...nhưng đây cũng chỉ là những món ăn phụ, ăn tạm thế cơm mà thôi.
Vào lúc 3 giờ chiều Thứ Bảy ngày 6 tháng 6 năm 2020 tại công viên Westminster số 1402 Magnolia, thành phố Westninster hơn một ngàn người đủ các sắc tộc đa số là giới trẻ đã tham dự cuộc biểu tình ôn hoà đòi công lý và cầu nguyện cho ông Floyd, về phía Việt Nam rất đông những người trẻ tham dự trong đó có một số nhân sĩ như Tiến sĩ Lê Minh Nguyên, Tiến sĩ Đinh Xuân Quân… và rất đông các cơ quan truyền thông.
Nhạc sĩ Trần Quang Lộc vừa từ trần tại Bà Rịa - Vũng Tàu, hưởng thọ 72 tuổi. Nhạc sĩ Trần Quang Lộc vừa qua đời lúc 17h30 chiều ngày 7-6-2020 tại nhà riêng ở Bà Rịa - Vũng Tàu, sau một thời gian dài chống chọi với ung thư bàng quang và ung thư phổi. Tin buồn này do nhiều báo trong nước phổ biến.
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không. Theo nghĩa đơn giản này, Hòa Thượng Thích Minh Châu (người đã dịch Tam Tạng Pali sang tiếng Việt) và tất cả quý tăng ni, cư sĩ đã thiết lập Đại Học Vạn Hạnh đều là các vị Bồ Tát.
Nếu mục tiêu của trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam tại Đà Lạt là đào luyện cho đất nước những sĩ quan có tư cách và văn võ kiêm toàn, Trung tá Bùi Quyền của chúng ta rất xứng đáng với danh hiệu ấy
Hàng chục ngàn người biểu tình đã tuần hành tại Thủ Đô Washington và các thành phố khác của Hoa Kỳ vào Thứ Bảy, 6 tháng 6 để yêu cầu chấm dứt nạn phân biệt chủng tộc và sự tàn bạo của cảnh sát, trong khi George Flold được tưởng niệm tại thành phố quê nhà của ông ở North Carolina bởi những người tới dự tưởng niệm chờ nhiều giờ để nhìn quan tài của ông, theo bản tin của AP cho biết hôm Thứ Bảy. Đeo khẩu trang và kêu gọi cảnh sát cải tổ, những người biểu tình hòa bình xuống đường khắp Hoa Kỳ và 4 châu lục khác, tạo ra cuộc vận động lớn nhất trong một ngày kể từ khi Floyd chết 12 ngày trước trong tay của cảnh sát Minneapolis.
Kinh tế Mỹ đã thức giấc chậm từ cuộc phong tỏa vì đại dịch, hôm Thứ Sáu chứng kiến lần đầu tin tin tức về việc làm lạc quan khi hàng triệu công nhân tạm nghỉ việc không lương đã bắt đầu trở lại làm việc trong tháng 5. Tuy nhiên, điều đó cũng che giấu một thực tế nghiệt ngã đối với hàng triệu người vẫn đang chờ đợi để trở lại làm việc, vẫn chờ đợi các phúc lợi, hoặc mất việc lâu dài hơn ở những nơi như Sturtevant, Wisconsin, nơi chế tạo động cơ Evinrude.
Tổng Thống Donald Trump đã ra lệnh rút 9,500 binh sĩ Hoa Kỳ ra khỏi Đức trong một hành động làm tăng lo ngại tại Châu Âu về sự cam kết của Hoa Kỳ đối với khu vực này. Việc rút bớt này sẽ giảm quân số Mỹ tại Đức xuống còn 25,000, so với 34,500 như hiện nay, theo một viên chức cao cấp Hoa Kỳ cho biết. Viên chức này nói rằng hành động mới này là kết quả của nhiều tháng làm việc bởi viên chức quân sự hàng đầu của Hoa Kỳ là Đại Tướng Mark Milley, chủ tịch ban tham mưu, và đã không làm gì với những căng thẳng giữa Trump và Thủ Tướng Đức Angela Merkel, người đã phá hỏng kế hoạch của Trump định tổ chức G7 trong tháng này.
Hoa phượng được Nhất Tuấn gọi là hoa học trò vì thuở đó hầu như ngôi trường nào cũng trồng cây phượng trong sân trường. Khi phượng đơm hoa báo hiệu cho mùa Hè cũng là thời điểm chia tay sau niên học. Để lưu niệm, nữ sinh đóng tập Lưu Bút giấy pelure xen kẽ các sắc màu, trông thật nhã, ghi cảm nghĩ cho nhau… Ở lớp Đệ Tứ, không còn học chung nhau vì lên lớp Đệ Tam theo ban A, B, C và lớp Đệ Nhất là thời điểm chia tay vĩnh viễn, tập Lưu Bút dày hơn, chia sẻ, tâm tình… của tuổi học trò. Hầu như nam sinh không có Lưu Bút, chỉ được xía phần, dù có tinh nghịch nhưng phải viết đứng đắn, lịch sự.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.