Tổng thống Trump hiện đang làm đảo lộn nền kinh tế toàn cầu với ý định đưa ngành sản xuất trở lại Hoa Kỳ. Trước đó, tổng thống Biden cũng ký thành luật các khoản đầu tư lớn nhằm mục đích tương tự. Nhưng có một nghịch lý: Các nhà sản xuất tại Mỹ cho biết họ đang phải vất vả để tìm người cho những công việc đang có sẵn.
Theo dữ liệu từ Cục Thống Kê Lao Động, hiện có gần nửa triệu việc làm sản xuất đang tìm người. Vào năm ngoái, tổ chức phi lợi nhuận Manufaturing Institute kết hợp cùng công ty tư vấn Deloitte đã khảo sát hơn 200 công ty sản xuất. Hơn 65% công ty cho biết tuyển dụng và giữ chân người lao động là thách thức kinh doanh số một. Thị trường lao động đang thiếu người, đặc biệt là trong ngành xây dựng và vận tải.
Chính quyền Biden đã đầu tư hơn 2 nghìn tỷ đô la vào các sáng kiến nhằm đẩy mạnh một số ngành công nghiệp Hoa Kỳ. Hiện nay, chi tiêu để xây dựng các nhà máy mới ở Hoa Kỳ đang bùng nổ; nhu cầu về lao động sản xuất sẽ tăng mạnh trong vài năm tới. Nhưng độ tuổi trung bình của lực lượng lao động Mỹ là tương đối già; và dự kiến sẽ có một làn sóng nghỉ hưu trong thập niên tới. Dự đoán ngành công nghiệp Mỹ sẽ cần thêm 3.8 triệu người lao động vào năm 2033; và nhiều khả năng 1.9 triệu việc làm trong số này không thể tìm người. Lưu ý rằng những dự đoán này có trước khi Trump áp dụng thuế quan gần đây, nhằm buộc nhiều nhà sản xuất phải xây dựng nhà máy tại Hoa Kỳ. Nếu mọi việc diễn ra theo đúng kế hoạch, nước Mỹ sẽ càng thiếu lực lượng lao động trầm trọng.
Câu hỏi đặt ra là nếu công việc sản xuất lý tưởng như vậy, tại sao không có nhiều người Mỹ làm những công việc đang có? Và ngành công nghiệp và chính phủ Hoa Kỳ có thể làm gì để giải quyết vấn đề này?
Gordon Hanson, một nhà kinh tế tại Trường Harvard Kennedy, cho biết gần đây nước Mỹ đang ở trong giai đoạn ngành sản xuất tăng trưởng đáng kể. Hoa Kỳ có thể sẽ đào tạo để có đủ nhân công, nhưng không thể trong một sớm một chiều. Một trong những lý do chính là công nhân nhiện nay cần phải có những kỹ năng cụ thể. Chỉ có khoảng 40% công việc trong ngành công nghiệp hiện tại liên quan trực tiếp đến việc sản xuất hàng hóa. Các nhà máy cần tuyển dụng nhân viên để nghiên cứu và phát triển, kỹ thuật, thiết kế, bán hàng… Một số công việc yêu cầu bằng đại học. Ước tính gần một nửa số vị trí tuyển dụng trong ngành sản xuất yêu cầu bằng cử nhân. Nhưng ngay cả một nửa số công việc còn lại không yêu cầu bằng cử nhân, các nhà sản xuất cũng đang gặp khó khăn khi tuyển dụng. Một số vị trí có nhu cầu tuyển dụng cao nhất hiện nay là kỹ thuật viên bảo trì, người vận hành máy, công nhân chuẩn bị nguyên vật liệu, người lái xe nâng…
Một giải pháp thường sử dụng để tuyển dụng người là trả lương cao hơn. Điều đó có thể thuyết phục người lao động đầu tư vào việc học các kỹ năng sản xuất. Lấy thí dụ trong ngành vận tải đường bộ: Các công ty vận tải trước đây phàn nàn về tình trạng thiếu tài xế xe tải trong nhiều thập niên do mức lương tương đối thấp và điều kiện làm việc nặng nhọc.
Hiểu điều này, các nhà sản xuất Hoa Kỳ đã tăng lương trong những năm gần đây. Nhưng mức lương cao hơn mà người Mỹ yêu cầu lại là một trong những lý do chính khiến nhiều công ty sản xuất rời khỏi nước Mỹ. Trả lương cao hơn, liệu các nhà sản xuất ở Mỹ có còn lãi không? Có khả năng cạnh tranh toàn cầu hay không? Thuế quan có thể giúp cân bằng giá với các đối thủ cạnh tranh nước ngoài, nhưng người Mỹ sẽ phải chịu trả chi phí cao hơn.
Một cách khác để đưa sản xuất trở lại Mỹ và vẫn có công việc được trả lương cao, đó là đạt năng suất cao hơn. Nếu sản xuất ở Hoa Kỳ có năng suất cao gấp 20 lần so với Trung Quốc, và người lao động được trả lương cao hơn gấp 20 lần, thì khả năng cạnh tranh là ngang nhau. Thực tế cho thấy điều này rất khó xảy ra. Ngành sản xuất của Mỹ đã chứng kiến sự tụt hậu đáng báo động về năng suất trong những năm gần đây.
Một vấn đề khác cần được giải quyết về lực lượng lao động ở Mỹ đó là kỹ năng của người làm việc. Những công việc trong các nhà máy hiện nay hoàn toàn khác so với 25 năm trước. Công nhân hiện nay đòi hỏi phải biết cách sử dụng các loại máy móc tinh vi, hiện đại. Hiện nay không có nhiều người có những kỹ năng này. Phải mất một hai năm để đào tạo, và cần có những trung tâm đào tạo phù hợp với công nghệ kỹ thuật của những nhà máy cụ thể.
Harry Moser, sáng lập viên kiêm chủ tịch của Reshoring Initiative, cho rằng nước Mỹ nên đầu tư nhiều hơn vào chương trình học nghề để xây dựng lực lượng sản xuất trong tương lai. Chương trình học nghề cung cấp cho những người trẻ cơ hội học các kỹ năng nghề mà không cần phải lấy bằng đại học bốn năm. Moser cho biết các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ đã quá coi trọng đại học mà không quan tâm đến đào tạo nghề. Hệ thống dạy nghề của Hoa Kỳ quá nhỏ khi so sánh với các quốc gia như Đức và Thụy Sĩ. Một nghiên cứu cho biết vào năm 2022, chỉ có 0.3% dân số trong độ tuổi lao động của Hoa Kỳ tham gia các chương trình học nghề. Ở Thụy Sĩ, con số đó là 3.6%, cao hơn 12 lần.
Chương trình dạy nghề giúp người Mỹ có được các kỹ năng quan trọng đối với các công việc sản xuất công nghệ cao mà nước Mỹ đang có ngày nay. Việc sản xuất ngày nay thường đòi hỏi sự kết hợp kiến thức về hệ thống điện, hệ thống cơ khí, bộ điều khiển logic, thủy lực và robot.
Các mô hình phát triển lực lượng lao động tốt nhất mà các chuyên viên nhận thấy hiện nay là sự hợp tác công-tư, do các tổ chức địa phương lãnh đạo, nơi các nhà sản xuất tham gia với sự hỗ trợ của hệ thống cao đẳng cộng đồng và cộng đồng doanh nghiệp địa phương.
Một chương trình dạy nghề rất thành công có tên là là Liên Đoàn Giáo Dục Sản Xuất Tiên Tiến (FAME), do nhà sản xuất xe hơi Toyota khởi xướng vào năm 2010. Công ty này gặp khó khăn trong việc tìm kiếm các kỹ thuật viên máy móc tại nhà máy sản xuất Toyota ở Georgetown, Kentucky. Vì vậy, họ chủ động hợp tác với các công ty địa phương và một trường cao đẳng cộng đồng, phát triển một chương trình học nghề để tạo ra lực lượng lao động mà họ cần. FAME là chương trình đào tạo kéo dài 21 tháng, trong đó học viên cân bằng giữa công việc và trường học. Mỗi tuần, họ dành ba ngày tại nhà máy và hai ngày tại một trường cao đẳng cộng đồng để học cách vận hành và sửa chữa thiết bị công nghệ cao, cũng như các kỹ năng quan trọng khác. Hầu hết sinh viên đều không phải trả nợ học phí. Những sinh viên này cũng có tiềm năng kiếm được lương cao hơn đáng kể. Năm năm sau khi tốt nghiệp, những học viên FAME kiếm được gần $98,000 đô la so với khoảng $52,783 của những người không tham gia FAME. Có được những kỹ năng đặc biệt và đang được săn đón là điều đáng giá. FAME đã trở thành mô hình phát triển lực lượng lao động cho các công ty sản xuất khác trên toàn quốc. Các chuyên gia đồng ý rằng chính phủ và các doanh nghiệp cần phải làm nhiều hơn nữa để đầu tư vào các chương trình như thế này, nhằm tạo cơ hội cho người Mỹ và phát triển lực lượng lao động mà ngành sản xuất cần.
Cuối tháng trước, Trump đã ban hành một sắc lệnh hành pháp nhằm mục đích "chuẩn bị cho người Mỹ những công việc thương mại có kỹ năng lương cao trong tương lai". Trump ra lệnh cho các viên chức chính quyền lập một kế hoạch để đạt được 1 triệu học viên mới. Phải cần thêm thời gian để biết chi tiết của kế hoạch này là gì, và liệu kế hoạch đó có trở thành hành động hay không.
Nhưng điều rõ ràng là việc đưa ngành sản xuất trở lại Mỹ mạnh mẽ sẽ đòi hỏi nhiều hơn là chỉ áp thuế, hoặc đầu tư nhiều tiền để xây dựng các nhà máy mới. Các nhà lãnh đạo cần phải định hình lại hệ thống giáo dục để giúp người Mỹ có được các kỹ năng mà các nhà sản xuất cần.
Việt Báo biên dịch
Nguồn ảnh: I4aw.org (Institution For The American Worker)
Gửi ý kiến của bạn