Đại bi, lòng thương rộng lớn, là nền tảng của hạnh bồ-tát, của tâm bồ-đề. Không có đại bi thì không có Bồ-tát, không có Phật. Tất cả dụng hạnh của Bồ-tát đều khởi đi từ đại bi; bởi vì đại bi là bản thể của phương tiện (1).
Từ nơi bản thể đại bi mà mở bày phương tiện thiện xảo (2), cứu độ chúng sanh. Nhưng phương tiện thiện xảo, nếu không cùng khởi xuất từ trí bất-nhị thì chỉ là những xảo thuật của tự ngã, tôn vinh lợi ích hay danh dự cá nhân bằng phương châm lợi tha.
Trí bất-nhị là tuệ giác, là trí tuệ vượt khỏi những ý niệm về hữu-vô, sinh-diệt. Vì vậy, khi bồ-tát vận dụng phương tiện thiện xảo từ lòng đại bi, thì đồng lúc thi triển trí bất-nhị: tất cả các pháp đều huyễn hóa không thật, giống như hoa đốm giữa hư không; không thấy sự khác biệt giữa ta và người, giữa cái khổ tự thân và thống khổ của chúng sanh, giữa hiện hữu hay không hiện hữu, giữa sinh tử và niết-bàn:
“Thế gian ly sanh-diệt
Do như hư không hoa
Trí bất đắc hữu-vô
Nhi hưng đại bi tâm.” (3)
Thuật ngữ thông thường gọi là Trí tuệ và Từ bi; còn nói bằng ngôn ngữ giản dị, gần gũi như Thiền sư Nhất Hạnh, là Hiểu và Thương. Đây là ngôn ngữ tiếp cận xã hội, ai cũng có thể hiểu và thực hành. Nhưng để Hiểu và Thương một cách thâm sâu như Đại Trí và Đại Bi, cần triển khai đến thượng tầng tri hành của người tầm cầu giải thoát giác ngộ chứ không phải chỉ quẩn quanh với tình cảm và hành động thường tục. Có nghĩa là phải miên mật tu tập, thường xuyên quán chiếu Bốn Tâm Vô Lượng (Từ, Bi, Hỷ, Xả), hoặc trải qua các giai đoạn luyện tâm, phát tâm bồ-đề, mới có thể phát triển được đại bi, lòng thương rộng lớn.
Lòng thương, dù mở rộng và quy hướng đến quả vị Phật đi nữa, cũng bắt đầu từ tình thương nền tảng là thương Mẹ. Từ thương Mẹ, nhớ đến ơn sâu của Mẹ, Cha, thân thích, bằng hữu. Từ nhớ ơn, nghĩ đến báo ơn. Từ báo ơn, khởi lòng từ mong muốn lợi lạc hạnh phúc đến Cha, Mẹ, người thân. Từ niệm thương yêu (từ tâm), khởi lòng đại bi, muốn cứu khổ Cha, Mẹ, quyến thuộc, người thân, kẻ oán, và tất cả chúng sanh. Từ đại bi tâm như thế, canh cánh trong lòng ý nguyện cứu khổ ban vui cho chúng sanh, xem như là trách nhiệm phải thực hiện trong đời sống hiện thực (chứ không phải chỉ trong thiền quán). Từ hoài bão cứu độ chúng sanh, phát khởi tâm bồ-đề dũng mãnh, chỉ một lòng hướng về quả vị vô thượng chánh giác. (4)
Mọi người đều có sẵn lòng đại bi, và cũng có sẵn những phiền não tham, sân, si...; cho nên, lòng đại bi cần phải được nuôi dưỡng và phát triển qua thiền quán và qua thực nghiệm (bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự) (5). Đại bi lớn mạnh thì phiền não mới được chuyển hóa, triệt tiêu.
Đại bi không phải là tình cảm suông. Đại bi là nguồn động lực vô hình nhưng có thể chuyển động và hóa giải tất cả sức nặng của thống khổ trần gian. Không biết bố thí thì không có đại bi. Không biết nói lời chân thật, hòa nhã, thương yêu thì không có đại bi. Không biết làm việc lợi ích cho người, cho xã hội thì không có đại bi. Không biết sống hòa với cộng sự và người chung quanh thì không có đại bi.
Đại bi là mẹ của Phật. Đại bi là mẹ của chúng sanh. Không có mẹ thì không có Phật. Không có mẹ thì không có chúng sanh.
Mẹ biểu tượng, hay mẹ thực tế, đều là căn bản, là chất liệu để khai sinh một đời mới. Một hữu tình chúng sinh, hay một bồ-tát hướng về vô thượng bồ-đề.
Đó là lý do kinh Phật thường ví mẹ như Phật ở nhà; và cũng là lý do mà hình ảnh mẹ, bài ca về mẹ, luôn có mặt trong tất cả các lễ Vu Lan hàng năm.
___________
(1) Tuệ Sỹ - Du-già Bồ-tát Giới, Hương Tích xuất bản 2019, Chương II, Bồ-đề Tâm, trang 77.
(2) “Một cách tổng quát, upāya-kauśalya, hay phương tiện thiện xảo, là trí năng nhạy bén để tiếp cận vấn đề, hay vận dụng thủ đoạn [phương tiện] một cách linh hoạt để thành tựu mục đích.” (Tuệ Sỹ - Huyền Thoại Duy-ma-cật, Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang xuất bản 2007 tại Hoa Kỳ, trang 56). Nên hiểu ở đây là pháp do đức Phật thuyết, là ngón tay chỉ mặt trăng, là ngôn ngữ văn tự dùng để thuyết minh, diễn đạt chân lý (chứ không đơn giản là phương cách hành động tùy tiện, lạm xưng là ‘phương tiện’ để thâu tóm quyền lợi, danh vị cho cá nhân hay tập thể).
(3) Kinh Lăng-già, Tôn giả Cầu-na-bạt-đà-la (Guṇabhadra [394-468]), dịch từ Phạn sang Hán: “世間離生滅 / 猶如虛空花 / 智不得有無 / 而興大悲心.”
(4) Pháp tu bảy tầng nhân quả: (1) Nhớ mẹ, (2) Nhớ ơn, (3) Báo ơn, (4) Tu tập tâm Từ, (5) Tu tập tâm Bi, (6) Tu tập ý nhạo tăng thượng, và (7) Tu tập cầu tâm Bồ-đề. Xem thêm chi tiêt trong “Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Lược Luận,” của Đại sư Tây Tạng Tsongkhapa [1357-1419], Pháp sư Đại Dũng, Pháp Tôn dịch Hán, Thích Pháp Chánh dịch Việt, trang 203-210.
(5) Tứ nhiếp pháp: bốn phương thức cảm hóa người khác một cách hữu hiệu để đưa họ vào đường chánh.
CHÁNH PHÁP Số 166, tháng 09.2025
NỘI DUNG SỐ NÀY:
· THƯ TÒA SOẠN, trang 2
· TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3
· THÔNG ĐIỆP VU LAN 2025 (Hội Đồng Giáo Phẩm), trang 6
· NHỮNG ĐÓNG GÓP TO LỚN CỦA CÁC HỌC GIẢ ANH QUỐC CHO NỀN PHẬT GIÁO ÂU-MỸ, t.t. (HT. Thích Trí Chơn), trang 7
· GIÁO DỤC HIẾU THẢO VỚI MẸ CHA (Nguyên Siêu), trang 9
· VU LAN BÁO HIẾU (thơ Thích Chúc Hiền), trang 13
· NGƯỜI XUẤT GIA & VẤN ĐỀ LỄ LẠY CHA MẸ (Chúc Phú), trang 14
· VU LAN NHỚ MẸ HIỀN (thơ Tuệ Uyển Nhi), trang 19
· THÔNG BÁO AN CƯ KIẾT ĐÔNG (GHPGVNTNHK), trang 20
· PHẬT GIÁO VÀ DI DÂN (Nguyên Giác), trang 21
· ĐỊNH LỰC, THIÊN SỬ (thơ Hoàng Xuân Sơn), trang 23
· BỐ CỤC TỨ NIỆM XỨ (Thích Tâm Hạnh), trang 24
· TỨ CÚ LỤC BÁT “VU LAN THÁNG BẢY” (thơ Vĩnh Hữu Tâm Không), trang 29
· TRI HÀNH HỢP NHẤT (Nhóm Áo Lam), trang 30
· THƯ CUNG THỈNH VÀ THƯ MỜI LỄ HIỆP KỴ LỊCH ĐẠI TỔ SƯ – NGÀY VỀ NGUỒN LẦN 14 (HT. Thích Thông Hải), trang 31
· TÌNH MẪU TỬ (Shundo Aoyama – Hoang Phong dịch), trang 32
· THƯƠNG LẮM QUÊ NHÀ, Ở ĐÓ... (thơ Nguyễn An Bình), trang 34
· ĐÊM QUA, MẸ NẰM MƠ (Vĩnh Hữu Tâm Không), trang 35
· TRÒ VUI GIẢ DỐI (thơ TM Ngô Tằng Giao), trang 39
· KHOẢNH KHẮC VU LAN (Tiểu Lục Thần Phong), trang 40
· TRỞ VỀ BẰNG SỰ RA ĐI, TRÚC BIẾC HOA VÀNG (thơ Huệ Trân), trang 42
· MÁ ƠI (Thanh Nguyễn), trang 43
· VAI TRÒ, Ý NGHĨA CỦA NHẬN THỨC VỀ VÔ THƯỜNG TRÊN CON ĐƯỜNG TU TẬP GIẢI THOÁT (Tuệ Huy Tô Đăng Khoa), trang 45
· CON VỀ THĂM MÁ CHIỀU NAY (thơ Thanh Nguyễn), trang 46
· MƯA RƠI THÁNG BẢY (thơ TN Giới Định), trang 47
· TRUYỆN CỰC NGẮN (Steven N), trang 48
· TA LÀ AI? (thơ Diệu Viên), trang 49
· THÁNG BẢY MƯA VỀ NHỚ MẸ CHA... (thơ Minh Đạo), trang 51
· NGÔN NGỮ VÀ GIẢI THOÁT: Mỹ học và Sứ mệnh Văn học Phật giáo (Huệ Đan), trang 52
· BÔNG HỒNG TRẮNG MÙA VU LAN (thơ Nhật Quang), trang 55
· CÓ TRĂNG, TA VẪN KHÔNG QUÊN ĐÈN (Tuệ Uyển Nhi), trang 58
· KHÚC NGUYỆN CẦU, TÂM SEN CỦA PHẬT... (thơ Tôn Nữ Mỹ Hạnh), trang 59
· TƯƠNG QUAN THẦY THUỐC, BỆNH NHÂN (BS. Nguyễn Ý Đức), trang 60
· KÍNH GỬI MẸ CHA (thơ Trần Toản), trang 62
· SINH NHẬT, NÊN NGHĨ TỚI CÔNG ƠN MẸ, CHA (TL Đào Mạnh Xuân), trang 63
· CÂU CHUYỆN PHẬT NHẬN CON (Truyện cổ Phật Giáo), trang 66
· CỞI TRÓI tập 2 – chương 18 (truyện dài Vĩnh Hảo), tr. 67
https://chanhphap.us/CHANH%20PHAP%20BO%20MOI/Muc%20luc%202025/CP%20so%20166%20(09.25).htm



