Hôm nay,  

Như Nhiên Vốn Không Tịch

11/12/202517:26:00(Xem: 970)
blank

Như Nhiên Vốn Không Tịch

Nguyên Giác
 

Có rất nhiều chữ rất khó để hiểu cho tận tường trên đời này. Và khi gặp chữ khó hiểu, tất nhiên là chuyện dịch từ Anh sang Việt, hay từ Việt sang Anh sẽ rất khó chính xác. Bởi vì, khi những chữ có nhiều nghĩa được chọn dịch theo một nghĩa, hẳn là các nghĩa khác sẽ bị thiếu sót. Trong đó, có chữ “tâm” tưởng là dễ dịch, nhưng hóa ra lại là chữ gây ra vô cùng gian nan. Thêm nữa, tại sao các Thiền sư ưa nói “ba cõi là tâm,” hay nơi khác lại nói, “vạn pháp duy tâm.” Chữ đã khó, mà nghĩa lại càng khó vô cùng tận.
 

Tôi yêu thích các Thiền sư Trung Hoa và Việt Nam khi họ làm thơ và hiển lộ những cách biểu hiện khác. Quý ngài nói rằng tâm là Phật, và không bận tâm lý luận dài dòng. Trong khi chúng ta đọc các văn bản đời nay, các phân tích rất phức tạp, có khi dễ làm rối rắm (trên nguyên tắc là để làm dễ hiểu) thêm. Thí dụ, ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ trong bài thơ Phật Tâm Ca, chỉ nói về tâm, và không bàn chuyện “căn, trần, thức... uẩn, xứ, giới...” hay bất kỳ những gì thiếu chất thơ.
 

Ngay ở những câu đầu của Tuệ Trung Thượng Sĩ trong bài thơ này đã nói thẳng những gì nhà thơ thấy, theo bản dịch của Thầy Thanh Từ:

Phật! Phật! Phật! không thể thấy!

Tâm! Tâm! Tâm! không thể nói!

Khi tâm sanh tức là Phật sanh,

Bằng Phật diệt là lúc tâm diệt.

Diệt tâm còn Phật chuyện không đâu,

Diệt Phật còn tâm bao giờ hết.
 

Hiển nhiên là khó. Phật mà là tâm? Mà sao tâm là Phật? Chúng ta thấy rõ, Tuệ Trung Thượng Sĩ không giải thích rõ. Vậy còn, tâm tham, tâm sân, tâm si... và vô lượng tâm của ba thời. Bởi vì tâm là một chữ nói về tất cả các hoạt động nơi thân tâm chúng ta, như suy nghĩ, cảm thọ, nhận biết, tưởng tượng, ghi nhớ, gợi nhớ, ý định, ý chí.... Vậy thì, tâm nào là Phật, tâm nào không phải Phật? Để rồi tới một chỗ, Tuệ Trung Thượng Sĩ mới viết:
 

Muốn cầu tâm, chớ tìm ngoài,

Bản thể như nhiên vốn không tịch.

Thực tế, ngài giải thích như thế cũng còn khó hiểu kinh khủng. Nếu không đủ vốn học Phật và không có nhiều năm ngồi cho mòn bồ đoàn, chúng ta có thể sẽ níu theo chữ và thắc mắc: nếu gốc là không, rồi lại tịch nữa, thì sao biết có cái gì là như nhiên.
 

Bây giờ chúng ta nói về Kinh Pháp Cú. Hai bài kệ đầu Pháp Cú là nói về Tâm, ý, thức... Bản dịch của Thầy Minh Châu trích như sau, nơi đây chúng ta viết theo văn xuôi cho dễ đối chiếu:

 1. "Ý dẫn đầu các pháp / Ý làm chủ, ý tạo / Nếu với ý ô nhiễm / Nói lên hay hành động / Khổ não bước theo sau / Như xe, chân vật kéo ".       

2. "Ý dẫn đầu các pháp / Ý làm chủ, ý tạo / Nếu với ý thanh tịnh / Nói lên hay hành động /An lạc bước theo sau / Như bóng, không rời hình ". (1)
 

Ý là gì của tâm? Có phải ý là suy nghĩ (think)? Hay là ý định (intent)? Hay là ý chí (will)? Trong thơ, tất nhiên phải ngắn gọn, không giải thích. Nhưng cách dịch của các vị sư khác cũng có chỗ bất đồng. Nơi đây, chúng ta xem các bản Anh dịch của các nhà sư, học giả nổi tiếng quốc tế.
 

Ngài Sujato dịch: Intention shapes experiences (Ý định dẫn tới các trải nghiệm).

Ngài Suddhāso dịch: All things are preceded by the mind (Tâm dẫn đầu các pháp).

Ngài Ānandajoti dịch: Mind precedes thoughts, mind is their chief (Tâm dẫn tới suy nghĩ, tâm là chủ...)

Ngài Ācāriya Buddharakkhita dịch: Mind precedes all mental states. Mind is their chief (Tâm dẫn tới các trạng thái của tâm. Tâm là chủ...)

 Ngài Peter Feldmeier dịch: All phenomena are preceded by the mind (Đi trước tất cả hiện tượng là tâm

Ngài Thanissaro dịch: Phenomena are preceded by the heart, ruled by the heart (Tâm [trái tim] dẫn tới các hiện tượng...)
 

Tóm lại, chúng ta thấy có những cách khá dị biệt để dịch chữ tâm nơi đây. Trong đó, có chữ “heart” và  “mind” là mơ hồ, tổng quát. Nhưng dịch là “intention” có hàm ý là dẫn tới nghiệp, vì khi có ý định, khi cố ý làm gì đó, thì sẽ gây ra nghiệp. Còn khi dịch đơn giản là “tâm” hay “mind” hay “heart” thì không chắc đã hàm ý gây nghiệp. Dĩ nhiên, tất cả các dịch giả đều đúng. Chữ nghĩa không bao giờ diễn dịch cho toàn hảo. Thí dụ, khi chúng ta nhìn lên bầu trời xanh, tìm cho đúng chữ “xanh” để mô tả thì bất khả, vì xanh thì có vô lượng màu xanh.
 

Khi quý ngài học giả đã có những cách dịch dị biệt nhau, tôi là bậc hậu sinh và học kém, tất nhiên phải dựa trên quý ngài, và phải lựa chọn cách nào mình thấy ưng ý nhất.
 

Tuy nhiên, khi nói về phẩm tính “tỉnh thức” của tâm, thường chữ này được quý Thầy tách ra để nói rõ, nói cụ thể. Thí dụ, bài Kệ 218 của Pháp Cú, bản dịch của Thầy Minh Châu là:

218. "Ước vọng pháp ly ngôn / Ý cảm xúc thượng quả / Tâm thoát ly ác dục,/ Xứng gọi bậc Thượng Lưu."

 Pháp ly ngôn là pháp giải thoát, không còn dùng ngôn ngữ để nói tới. Bản dịch của Thầy Minh Châu nhiều chữ Hán Việt, nên còn khó hiểu. Nhưng bản dịch của ngài Sujato dễ hiểu hơn:

One eager to realize the ineffable would be filled with awareness. Their mind not bound to pleasures of sense, they’re said to be heading upstream. (Người khao khát thấu hiểu điều không thể diễn tả bằng lời sẽ tràn đầy nhận biết tỉnh thức. Tâm họ không bị buộc vào thú vui giác quan, họ đang hướng lên thượng nguồn.)
 

Như thế, Thầy Minh Châu mô tả các trạng thái của tâm trong bài kệ 218 là: ước vọng, ý cảm xúc, tâm thoát ly. Trong khi ngài Sujato viết là: eager, awareness, mind not bound.

Nghĩa là, nên hiểu theo quý ngài xưa thường nói, “được ý thì quên lời.” Còn chấp vào chữ để bẻ nát chữ ra, thì sẽ thấy tay mình vấy mực mà chữ không toàn vẹn nữa. Viết như trên để nói rằng quý Thầy Tam Tạng pháp sư, đại dịch giả còn dùng chữ không hoàn toàn thống nhất, trong khi bản thân tôi là người sơ học, chỉ lặng lẽ học, đọc, nghiên cứu và không hề dám so đo gì khác.
 

Nói như thế cũng để nêu lên các nỗ lực gian nan khi tìm hiểu rằng phiền não khởi lên từ đâu và thế nào, rằng tâm chấp ngã ẩn núp nơi đâu, lấp ló chỗ nào và khi nào. Và nếu không nhìn tận tường tâm mình, thì sao thấy được bản nhiên không tịch được.

Bây giờ chúng ta nhìn lộ trình này. Khi nhìn thấy nụ hoa, thì sắc uẩn là mắt nhìn (căn) và cái được thấy là nụ hoa (trần), thức sẽ khởi lên nhận biết rằng có cái được thấy, và tưởng là xác định rằng cái được thấy là nụ hoa; lúc đó thọ khởi lên hoặc ưa thích, hoặc ghét bỏ, hoặc trung tính không ưa, không ghét. Lúc đó, hành sẽ khởi lên, dẫn tới ý định (như ưa thích, muốn ngắt bông hoa đưa về cắm bông) hay gì đó. Chữ ý định (intention) là chữ mà Thầy Sujato dịch cho câu đầu trong bài kệ số 1 của Kinh Pháp Cú. Và ý định chính là nghiệp phiền não, nghiệp sinh tử luân hồi.
 

Do vậy, Đức Phật dạy trong Kinh SN 18.7 rằng phải xa lìa tất cả các ý định đối với cái được thấy, được nghe, được ngửi, được nếm, được chạm xúc và được tư lường (a learned noble disciple grows disillusioned with intention regarding sights, sounds, smells, tastes, touches, and ideas). Nghĩa là, không muốn, không ưa, không ghét, và tỉnh thức thấy rằng vì ý định là vô thường nên không có gì cần phải ý định.


 

Một cách khác, bởi vì chúng ta nghĩ rằng có cái gọi là mắt, có cái gọi là hoa... nên thế giới tập khởi. Đức Phật dạy trong Kinh SN 35.91 rằng phải vô niệm, phải xa lìa tư lường, đừng nghĩ ngợi rằng abc hay xyz... và đó là giải thoát. Kinh này viết, theo bản dịch của Thầy Minh Châu:
 

"Chớ có nghĩ đến mắt, chớ có nghĩ đến trong mắt, chớ có nghĩ đến từ mắt, chớ có nghĩ đến: “Mắt là của ta”. Chớ có nghĩ đến các sắc, chớ có nghĩ đến trong các sắc, chớ có nghĩ đến từ các sắc, chớ có nghĩ đến: “Các sắc là của ta”. Chớ có nghĩ đến nhãn thức … Chớ có nghĩ đến nhãn xúc … Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc... [Chớ có nghĩ tới tai... mũi... lưỡi... thân... ý... cho đến uẩn, giới, xứ...] Vị ấy không nghĩ đến như vậy nên không chấp thủ một cái gì trong đời. Do không chấp thủ nên không có dao động. Do không có dao động, vị ấy tự mình tịch tịnh một cách hoàn toàn. Vị ấy biết rõ: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”. (2)
 

Tuy nhiên, tập khởi ái đôi khi là tự nhiên, bởi vì tập khí nhiều đời. Đức Phật dạy rằng ngay khi thấy, là ly tham liền, thì đó là giải thoát. Trong Kinh SN 12.43, Đức Phật giải thích về đoạn diệt khỏ, theo bản dịch Thầy Minh Châu:

 

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là khổ đoạn diệt? Do duyên con mắt và các sắc, nhãn thức khởi lên. Do ba cái tụ hội, nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ. Do duyên thọ nên có ái. Do ly tham, đoạn diệt ái ấy một cách hoàn toàn nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não đều đoạn diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này. Này các Tỷ-kheo, đây là khổ đoạn diệt.[tương tự với tai, mũi, lưỡi, thân, ý]"(3)
 

Thực tế, không hề có cái gì gọi là thế giới, mà chỉ có thể nói có thế giới là duyên từ các căn khởi lên. Nghĩa là, thế giới là từ tâm khởi lên. Chúng ta từ vô lượng kiếp chấp rằng có ta, có người, có thế giời... Tuy nhiên, Đức Phật nói rằng tất cả không có chuyện có thế giới hay không có thế giới, mà tất cả chỉ là duyên theo mắt, tai, mũi. lưỡi, thân, ý... Kinh SN 35.68, bản dịch của Thầy Minh Châu ghi lời Đức Phật:
 

“… “Thế giới, thế giới”, bạch Thế Tôn, như vậy được nói đến. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là thế giới, hay là danh nghĩa thế giới?

—Chỗ nào, này Samiddhi, có mắt, có các sắc, có nhãn thức, có các pháp do mắt nhận thức, tại chỗ ấy có thế giới, hay danh nghĩa thế giới … (như trên) … Chỗ nào có ý, có các pháp, có ý thức, có các pháp do ý nhận thức, tại chỗ ấy có thế giới hay có danh nghĩa thế giới.

Và tại chỗ nào, này Samiddhi, không có mắt, không có các sắc, không có nhãn thức, không có các pháp do mắt nhận thức, tại chỗ ấy không có thế giới, hay không có danh nghĩa thế giới … không có ý … tại chỗ ấy, không có thế giới hay không có danh nghĩa thế giới.”(4)

Tới đây, hiển nhiên là Đức Phật muốn nói vạn pháp là do tâm hiển lộ. Ba cõi là tâm... hiển nhiên là nghĩa bí ẩn vô cùng. Đơn giản là, ngoài thế giới chúng ta kinh nghiệm, sẽ không có thế giới nào khác. Như thế, giác ngộ với giải thoát phải là ngay ở nơi mắt tai mũi lưỡi thân ý, không dựa vào chỗ nào khác.

Trong Kinh SN 35.23, Đức Phật dạy rằng: “—Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết về tất cả. Hãy lắng nghe. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tất cả? Mắt và các sắc; tai và các tiếng; mũi và các hương; lưỡi và các vị; thân và các xúc; ý và các pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, gọi là tất cả. Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: “Sau khi từ bỏ tất cả này, ta sẽ tuyên bố (một) tất cả khác”, thời lời nói người ấy chỉ là khoa ngôn. Và bị hỏi, người ấy không thể chứng minh gì. Và hơn nữa, người ấy có thể rơi vào ách nạn. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, như vậy ra ngoài giới vức (avisaya) của người ấy!” (5)

Tới đây chúng ta hỏi thêm, tại sao các Thiền sư ưa nói về Không. Ngay trong Kinh Nhật Tụng là có bài Bát Nhã Tâm Kinh, và nói rất minh bạch rằng Sắc (cái được thấy, nghe, ngửi, nếm, cảm xúc, tư lường) chính là Không. Ngay đó là không. Và ngay nơi Không cũng là thế giới hóa hiện. Dò lại Kinh điển, Đức Phật cũng từng nói như thế. Nói y hệt như thế.
 

Khi chúng ta dẫn ra giải thích của Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám sẽ thấy dễ hiểu hơn, cụ thể rằng cái bàn trước mắt chính là không, là vô ngã, là do duyên hình thành, không bấu víu vào đâu để nói là có. Dẫn ra trường hợp cái bàn, cụ Lê Đình Thám viết, trích: “Ví dụ như một cái bàn, nó cũng pbải đủ Nhơn đủ Duyên rồi mới thành cái bàn được. Nhơn của cái bàn tức là các thứ gỗ; gỗ lim thi đóng thành bàn lim, gỗ kiền-kiền thì đóng thành bàn kiền-kiền, nhơn với quả tụy có khác, nhưng cũng đồng một tánh-cách, hễ gỗ lim thì đóng thành bàn lim, chớ không thể nào đóng thành bàn kiền-kiền được. Song một mình gỗ cũng không đủ làm thành cái bàn, muốn đóng cho thành được cái bàn, lại cần phải có nhơn-công cưa, xẻ, bào, chuốt, ráp mộng, ghép ván nữa, những nhơn-công kia đều là những trợ duyên giúp đỡ cho cái nguyên-nhơn gỗ tạo thành ra cái bàn vậy. Chúng ta xét như trên thì biết cái bàn là một vật do nhơn-duyên sanh ra, tức là một cái nhơn-duyên-sở-sanh pháp. Vậy những nhơn duyên-sở-sanh pháp thiết-thiệt là thế nào? Đáp lại câu hỏi ấy, chúng ta nên lập câu kệ thứ hai, tức là câu: "Ngã thuyết tức thị không". Ngã thuyết tức thị không, nghĩa là tôi nói các nhơn duyên-sở sanh pháp kia tức là chơn không.”
 

Trong khi đó, Đức Phật không cần dài dòng. Đức Phật nói đơn giản rằng mọi thứ đều không có cái gì để gọi là cái gì. Trong Kính SN 35.85, Đức Phật dạy:

Ānanda, thế giới là không tự ngã, và không thuộc tự ngã, nên thế giới được gọi là trống không. Và cái gì, này Ānanda, là không tự ngã và không thuộc tự ngã? Mắt, này Ānanda, là không tự ngã và không thuộc tự ngã. Các sắc là không tự ngã, hay không thuộc tự ngã. Nhãn thức là không tự ngã, hay không thuộc tự ngã. Nhãn xúc là không tự ngã, hay không thuộc tự ngã … Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy không có tự ngã hay không thuộc tự ngã. Và vì rằng, này Ānanda, không có tự ngã, hay không thuộc tự ngã nên được gọi trống không là thế giới này.” (6)
 

Và vì thế giới trống không, vì mắt tai mũi lưỡi thân ý đều trống không, vì sắc thọ tưởng hành thức đều là trống không... cho nên đúng như Tuệ Trung Thượng Sĩ nói rằng bản nhiên là không và tịch.
 

Tuy rằng, ba cõi là tâm, nhưng giải thoát là, theo ngài Tuệ Trung:

Muốn cầu tâm, chớ tìm ngoài,

Bản thể như nhiên vốn không tịch.

Nơi đó đó, không đâu xa, rất gần đó, ngay trước mắt và ngay bên tai.
 

GHI CHÚ:

(1) Kinh Pháp Cú. Thầy Minh Châu. https://thuvienhoasen.org/p15a7961/pham-01-10

(2) Kinh SN 35.91: https://suttacentral.net/sn35.91/vi/minh_chau

(3) Kinh SN 12.43: https://suttacentral.net/sn12.43/vi/minh_chau 

(4) Kinh SN 35.68: https://suttacentral.net/sn35.68/vi/minh_chau

(5) Kinh SN 35.23: https://suttacentral.net/sn35.23/vi/minh_chau

(6) Kinh SN 35.85: https://suttacentral.net/sn35.85/vi/minh_chau

  

 

 




Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đến nay, đối với đồng bào ở trong nước và cộng đồng người Việt ở hải ngoại kể từ 30-4-1975, sau 45 năm, những ngày ấy, những năm tháng ấy, không bom đạn trên đầu, nhưng sao trong lòng của mỗi chúng ta cứ lo âu, xao xuyến, sục sôi những chuyển đổi. Không sục sôi chuyển đổi sao được, những tiến bộ Khoa học Công nghệ 4.0, nhất là sự tiến bộ của điện toán, của hệ thống truyền thông, thông tin vượt tất cả mọi kiểm soát, vượt mọi tường lửa, thế giới phô bày trước mắt loài người, trước mặt 90 triệu đồng bào Việt Nam, những cái hay cũng như những cái dỡ của nó một cách phũ phàng.
Ngày 29 tháng 4, năm 2020, nhân tưởng niệm 45 năm tháng Tư Đen, các Dân Biểu Hoa Kỳ Alan Lowenthal, Lou Correa và Harley Rouda đã gửi thư cho Chủ Tịch Nước Nguyễn Phú Trọng và Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu trả tự do cho tất cả tù nhân lương tâm tại VN, tiếp tục việc trùng tu Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, cho phép các tổ chức tôn giáo độc lập được công khai hoạt động, và bảo vệ các quyền và tự do căn bản của công dân Việt Nam.
Trong tuần lễ này, Dân Biểu Liên Bang Lou Correa (CA-46) đã giới thiệu nghị quyết tưởng niệm về sự hy sinh và can đảm của người tị nạn Việt Nam bỏ chạy khỏi miền nam Việt Nam từ sau ngày Sài Gòn sụp đổ khoảng 45 năm về trước.
ngôi Thiền viện trang nghiêm đang mọc lên nơi Danh thắng Bạch Mã, sống động giữa lòng Hồ Truồi; hay một Thiền phái Trúc Lâm đang được sống dậy trong lòng người dân xứ Huế.
Máu đã đổ suốt từ thời chiến tranh cho tới lúc hòa bình 45 năm nay, những giọt máu của người dân trong nước khao khát nền Tự Do Dân Chủ vẫn còn chảy trong nhà tù với những bản án khắc nghiệt dành cho họ và những người đã chết đều có thật. Rất thật.
Nhiều người Mỹ gốc Việt trên khắp đất nước sẽ tham gia vào lực lượng vận chuyển, phân phát đồ ăn và các dụng cụ cần thiết để hỗ trợ nhân viên y tế chiến đấu với dịch bệnh COVID-19
“Bà X khoảng bốn mươi tuổi, hiện đang sống với chồng và con gái trong một căn nhà do chính họ làm chủ, ở California. Bà nói thông thạo hai thứ tiếng: Anh và Việt. Phục sức giản dị, trông buồn bã và lo lắng, bà X tuy dè dặt nhưng hoàn toàn thành thật khi trả lời mọi câu hỏi được đặt ra. “Bà rời khỏi Việt Nam vào năm 1980, khi còn là một cô bé, cùng với chị và anh rể. Ghe bị cướp ba lần, trong khi lênh đênh trong vịnh Thái Lan. Chị bà X bị hãm hiếp ngay lần thứ nhất. Khi người anh của bà X xông vào cứu vợ, ông bị đập búa vào đầu và xô xuống biển. Lần thứ hai, mọi chuyện diễn tiến cũng gần như lần đầu. Riêng lần cuối, khi bỏ đi, đám hải tặc còn bắt theo theo mấy thiếu nữ trẻ nhất trên thuyền. Chị bà X là một trong những người này.
Tìm được ý nghĩa thực của phương trình từ năm 2012 nhưng không dám công bố vì còn kẹt một bí mật cuối cùng, loay hoay nghiên cứu, tìm tòi hàng năm không giải nổi. Nó nằm trong chữ C² (C bình phương) – bình phương tốc độ ánh sáng. Vật chất chỉ cần chuyển động nhanh bằng (C), tốc độ ánh sáng, là biến thành năng lượng rồi, còn sót cái gì để mà đòi bay nhanh hơn? – C+1 đã là dư. C nhân hai, nhân ba là dư quá lố, vậy mà ở đây còn dư kinh hồn hơn, là c bình phương lận – c nhân với c (186,282 x 186,282) nghĩa là khoảng 34,700,983,524 dặm/ giây!
Sau trận Phước Long 6/1/1975, Hoa Kỳ im lặng, Ủy ban Quốc tế Kiểm soát và Giám sát Đình chiến bất lực, cuộc chiến đã đến hồi chấm dứt. Ngày 10/3/1975, Thị xã Ban Mê Thuột bị tấn công thất thủ sau hai ngày chống cự, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút quân, cao nguyên Trung phần lọt vào tay cộng sản. Ngày 8/3/1975, quân Bắc Việt bắt đầu tấn công vào Quảng Trị, Quảng Trị mất, rồi các tỉnh miền Trung lần lượt mất theo.
Khi bỏ nước ra đi tìm tự do, tất cả bậc cha mẹ Việt Nam đều nghĩ đến tương lai của các đứa con mình.Các con cần phải học, học và học… Sự thành đạt của con em chúng ta trong học vấn được xem như là sự thành công và niềm hảnh diện chung của cha mẹ Viêt Nam trên miền đất hứa.
Cố vấn y tế của Bạch Ốc Bác Sĩ Anthony Fauci cho biết hôm Thứ Ba, 28 tháng 4 rằng “có thể là một mùa thu xấu” nếu các nhà nghiên cứu không tìm ra cách trị liệu hiệu quả để chống lại vi khuẩn corona vào lúc đó. Vi khuẩn sẽ chắc chắn trở lại Hoa Kỳ ngay cả khi các trường hợp bắt đầu ổn định, theo BS Fauci, giám đốc Viện Bệnh Dị Ứng và Nhiễm Trùng Quốc Gia, phát biểu trong cuộc phỏng vấn với Câu Lạc Bộ Kinh Tế Của Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn. Covid-19 “sẽ không biến mất khỏi hành tinh,” theo ông cho biết, rằng các chuyên gia bệnh truyền nhiễm đang tìm hiểu về cách vi khuẩn này hoạt động bằng việc quan sát việc lây lan trỗi dậy tại nhiều vùng khác như miền nam Phi Châu mà đang bắt đầu vào mùa lạnh của họ.
Các trường học tại California có thể đón học sinh trở lại vào mùa hè năm nay và các cơ sở kinh doanh bán lẻ và sản xuất có thể tái mở cửa trong những tuần lễ sắp tới, theo Thống Đốc California Gavin Newsom cho biết hôm Thứ Ba, 28 tháng 4 khi ông đưa ra cái nhìn chắc chắn nhất từ trước tới nay về điều gì tái mở cửa từ từ có thể cụ thể nhất. Với khả năng chăm sóc sức khỏe và sự ổn định số người vào bệnh viện, Newsom nói rằng tiểu bang chỉ còn cách “nhiều tuần, không phải nhiều tháng” từ việc thực hiện “những điều chỉnh có ý nghĩa” đối với lệnh toàn tiểu bang mà đã ban xuống cho người dân California ở trong nhà trong gần 6 tuần lễ qua. Hôm Thứ Ba, Newsom cho biết các trường học có thể bắt đầu niên học kế tiếp sớm hơn, có thể cuối tháng 7 hay đầu tháng 8, dù ông đã không cho biết chi tiết hướng dẫn có thể xảy ra trong các trường học.
Hội Đồng Giám Sát Quận Cam đã bỏ phiếu với tỉ lệ 5 trên 0 vào chiều Thứ Ba, 28 tháng 4 để mở cửa các cơ sở kinh doanh với những hướng dẫn bảo đảm sự an toàn của công chúng. Các hướng dẫn được giới thiệu bởi nữ Chủ Tịch Michelle Steel và Giám Sát Viên Don Wagner được thông qua bởi hội đồng sẽ áp dụng như mô hình cho Quận Cam để trở lại tình trạng sinh hoạt bình thường, theo các viên chức cho biết. Theo hội đồng, “Tất cả đề nghị theo Cơ Quan Chăm Sóc Sức Khỏe Quận Cam và không thay thế bất cứ lệnh mâu thuẫn hay hạn chế nào được đưa ra bởi các chính quyền địa phương, Tiểu Bang California, hay Chính Phủ Liên Bang.” “Quận Cam đã “làm thẳng đường cong” một cách hiệu quả.”
Dân Biểu Liên Bang Hoa Kỳ Alan Lowenthal (CA-47) ngày hôm nay đã đệ trình Nghị Quyết Hạ Viện ghi nhận biến cố lịch sử quan trọng và tưởng niệm 45 năm ngày Sài Gòn thất thủ và sự sập đổ bi thảm của Việt Nam Cộng Hòa. Vào ngày 30 tháng 4, năm 1975, Sài Gòn, thủ đô Việt Nam Cộng Hòa đã bị lực lượng Cộng sản xâm chiếm trong Tháng Tư Đen và Sài Gòn đã bị thất thủ. Mỗi năm biến cố trọng đại này được các cộng đồng người Mỹ gốc Việt khắp Hoa Kỳ tổ chức tưởng niệm.
Nhân dịp lần thứ 45 tưởng niệm biến cố Tháng Tư Đen, Dân Biểu Liên Bang Harley Rouda (Địa Hạt 48) đã gởi thông điệp đến với cộng đồng Người Mỹ gốc Việt tại Quận Cam: Trong thông điệp này, Dân Biểu Rouda cũng nhắc đến những người trong cộng đồng chúng ta mà ông vừa vinh danh: Tướng Lê Minh Đảo, nhạc sĩ Trúc Hồ, Bác Sĩ Phạm Đỗ Thiên Hương.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.