Hôm nay,  

Như Nhiên Vốn Không Tịch

11/12/202517:26:00(Xem: 958)
blank

Như Nhiên Vốn Không Tịch

Nguyên Giác
 

Có rất nhiều chữ rất khó để hiểu cho tận tường trên đời này. Và khi gặp chữ khó hiểu, tất nhiên là chuyện dịch từ Anh sang Việt, hay từ Việt sang Anh sẽ rất khó chính xác. Bởi vì, khi những chữ có nhiều nghĩa được chọn dịch theo một nghĩa, hẳn là các nghĩa khác sẽ bị thiếu sót. Trong đó, có chữ “tâm” tưởng là dễ dịch, nhưng hóa ra lại là chữ gây ra vô cùng gian nan. Thêm nữa, tại sao các Thiền sư ưa nói “ba cõi là tâm,” hay nơi khác lại nói, “vạn pháp duy tâm.” Chữ đã khó, mà nghĩa lại càng khó vô cùng tận.
 

Tôi yêu thích các Thiền sư Trung Hoa và Việt Nam khi họ làm thơ và hiển lộ những cách biểu hiện khác. Quý ngài nói rằng tâm là Phật, và không bận tâm lý luận dài dòng. Trong khi chúng ta đọc các văn bản đời nay, các phân tích rất phức tạp, có khi dễ làm rối rắm (trên nguyên tắc là để làm dễ hiểu) thêm. Thí dụ, ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ trong bài thơ Phật Tâm Ca, chỉ nói về tâm, và không bàn chuyện “căn, trần, thức... uẩn, xứ, giới...” hay bất kỳ những gì thiếu chất thơ.
 

Ngay ở những câu đầu của Tuệ Trung Thượng Sĩ trong bài thơ này đã nói thẳng những gì nhà thơ thấy, theo bản dịch của Thầy Thanh Từ:

Phật! Phật! Phật! không thể thấy!

Tâm! Tâm! Tâm! không thể nói!

Khi tâm sanh tức là Phật sanh,

Bằng Phật diệt là lúc tâm diệt.

Diệt tâm còn Phật chuyện không đâu,

Diệt Phật còn tâm bao giờ hết.
 

Hiển nhiên là khó. Phật mà là tâm? Mà sao tâm là Phật? Chúng ta thấy rõ, Tuệ Trung Thượng Sĩ không giải thích rõ. Vậy còn, tâm tham, tâm sân, tâm si... và vô lượng tâm của ba thời. Bởi vì tâm là một chữ nói về tất cả các hoạt động nơi thân tâm chúng ta, như suy nghĩ, cảm thọ, nhận biết, tưởng tượng, ghi nhớ, gợi nhớ, ý định, ý chí.... Vậy thì, tâm nào là Phật, tâm nào không phải Phật? Để rồi tới một chỗ, Tuệ Trung Thượng Sĩ mới viết:
 

Muốn cầu tâm, chớ tìm ngoài,

Bản thể như nhiên vốn không tịch.

Thực tế, ngài giải thích như thế cũng còn khó hiểu kinh khủng. Nếu không đủ vốn học Phật và không có nhiều năm ngồi cho mòn bồ đoàn, chúng ta có thể sẽ níu theo chữ và thắc mắc: nếu gốc là không, rồi lại tịch nữa, thì sao biết có cái gì là như nhiên.
 

Bây giờ chúng ta nói về Kinh Pháp Cú. Hai bài kệ đầu Pháp Cú là nói về Tâm, ý, thức... Bản dịch của Thầy Minh Châu trích như sau, nơi đây chúng ta viết theo văn xuôi cho dễ đối chiếu:

 1. "Ý dẫn đầu các pháp / Ý làm chủ, ý tạo / Nếu với ý ô nhiễm / Nói lên hay hành động / Khổ não bước theo sau / Như xe, chân vật kéo ".       

2. "Ý dẫn đầu các pháp / Ý làm chủ, ý tạo / Nếu với ý thanh tịnh / Nói lên hay hành động /An lạc bước theo sau / Như bóng, không rời hình ". (1)
 

Ý là gì của tâm? Có phải ý là suy nghĩ (think)? Hay là ý định (intent)? Hay là ý chí (will)? Trong thơ, tất nhiên phải ngắn gọn, không giải thích. Nhưng cách dịch của các vị sư khác cũng có chỗ bất đồng. Nơi đây, chúng ta xem các bản Anh dịch của các nhà sư, học giả nổi tiếng quốc tế.
 

Ngài Sujato dịch: Intention shapes experiences (Ý định dẫn tới các trải nghiệm).

Ngài Suddhāso dịch: All things are preceded by the mind (Tâm dẫn đầu các pháp).

Ngài Ānandajoti dịch: Mind precedes thoughts, mind is their chief (Tâm dẫn tới suy nghĩ, tâm là chủ...)

Ngài Ācāriya Buddharakkhita dịch: Mind precedes all mental states. Mind is their chief (Tâm dẫn tới các trạng thái của tâm. Tâm là chủ...)

 Ngài Peter Feldmeier dịch: All phenomena are preceded by the mind (Đi trước tất cả hiện tượng là tâm

Ngài Thanissaro dịch: Phenomena are preceded by the heart, ruled by the heart (Tâm [trái tim] dẫn tới các hiện tượng...)
 

Tóm lại, chúng ta thấy có những cách khá dị biệt để dịch chữ tâm nơi đây. Trong đó, có chữ “heart” và  “mind” là mơ hồ, tổng quát. Nhưng dịch là “intention” có hàm ý là dẫn tới nghiệp, vì khi có ý định, khi cố ý làm gì đó, thì sẽ gây ra nghiệp. Còn khi dịch đơn giản là “tâm” hay “mind” hay “heart” thì không chắc đã hàm ý gây nghiệp. Dĩ nhiên, tất cả các dịch giả đều đúng. Chữ nghĩa không bao giờ diễn dịch cho toàn hảo. Thí dụ, khi chúng ta nhìn lên bầu trời xanh, tìm cho đúng chữ “xanh” để mô tả thì bất khả, vì xanh thì có vô lượng màu xanh.
 

Khi quý ngài học giả đã có những cách dịch dị biệt nhau, tôi là bậc hậu sinh và học kém, tất nhiên phải dựa trên quý ngài, và phải lựa chọn cách nào mình thấy ưng ý nhất.
 

Tuy nhiên, khi nói về phẩm tính “tỉnh thức” của tâm, thường chữ này được quý Thầy tách ra để nói rõ, nói cụ thể. Thí dụ, bài Kệ 218 của Pháp Cú, bản dịch của Thầy Minh Châu là:

218. "Ước vọng pháp ly ngôn / Ý cảm xúc thượng quả / Tâm thoát ly ác dục,/ Xứng gọi bậc Thượng Lưu."

 Pháp ly ngôn là pháp giải thoát, không còn dùng ngôn ngữ để nói tới. Bản dịch của Thầy Minh Châu nhiều chữ Hán Việt, nên còn khó hiểu. Nhưng bản dịch của ngài Sujato dễ hiểu hơn:

One eager to realize the ineffable would be filled with awareness. Their mind not bound to pleasures of sense, they’re said to be heading upstream. (Người khao khát thấu hiểu điều không thể diễn tả bằng lời sẽ tràn đầy nhận biết tỉnh thức. Tâm họ không bị buộc vào thú vui giác quan, họ đang hướng lên thượng nguồn.)
 

Như thế, Thầy Minh Châu mô tả các trạng thái của tâm trong bài kệ 218 là: ước vọng, ý cảm xúc, tâm thoát ly. Trong khi ngài Sujato viết là: eager, awareness, mind not bound.

Nghĩa là, nên hiểu theo quý ngài xưa thường nói, “được ý thì quên lời.” Còn chấp vào chữ để bẻ nát chữ ra, thì sẽ thấy tay mình vấy mực mà chữ không toàn vẹn nữa. Viết như trên để nói rằng quý Thầy Tam Tạng pháp sư, đại dịch giả còn dùng chữ không hoàn toàn thống nhất, trong khi bản thân tôi là người sơ học, chỉ lặng lẽ học, đọc, nghiên cứu và không hề dám so đo gì khác.
 

Nói như thế cũng để nêu lên các nỗ lực gian nan khi tìm hiểu rằng phiền não khởi lên từ đâu và thế nào, rằng tâm chấp ngã ẩn núp nơi đâu, lấp ló chỗ nào và khi nào. Và nếu không nhìn tận tường tâm mình, thì sao thấy được bản nhiên không tịch được.

Bây giờ chúng ta nhìn lộ trình này. Khi nhìn thấy nụ hoa, thì sắc uẩn là mắt nhìn (căn) và cái được thấy là nụ hoa (trần), thức sẽ khởi lên nhận biết rằng có cái được thấy, và tưởng là xác định rằng cái được thấy là nụ hoa; lúc đó thọ khởi lên hoặc ưa thích, hoặc ghét bỏ, hoặc trung tính không ưa, không ghét. Lúc đó, hành sẽ khởi lên, dẫn tới ý định (như ưa thích, muốn ngắt bông hoa đưa về cắm bông) hay gì đó. Chữ ý định (intention) là chữ mà Thầy Sujato dịch cho câu đầu trong bài kệ số 1 của Kinh Pháp Cú. Và ý định chính là nghiệp phiền não, nghiệp sinh tử luân hồi.
 

Do vậy, Đức Phật dạy trong Kinh SN 18.7 rằng phải xa lìa tất cả các ý định đối với cái được thấy, được nghe, được ngửi, được nếm, được chạm xúc và được tư lường (a learned noble disciple grows disillusioned with intention regarding sights, sounds, smells, tastes, touches, and ideas). Nghĩa là, không muốn, không ưa, không ghét, và tỉnh thức thấy rằng vì ý định là vô thường nên không có gì cần phải ý định.


 

Một cách khác, bởi vì chúng ta nghĩ rằng có cái gọi là mắt, có cái gọi là hoa... nên thế giới tập khởi. Đức Phật dạy trong Kinh SN 35.91 rằng phải vô niệm, phải xa lìa tư lường, đừng nghĩ ngợi rằng abc hay xyz... và đó là giải thoát. Kinh này viết, theo bản dịch của Thầy Minh Châu:
 

"Chớ có nghĩ đến mắt, chớ có nghĩ đến trong mắt, chớ có nghĩ đến từ mắt, chớ có nghĩ đến: “Mắt là của ta”. Chớ có nghĩ đến các sắc, chớ có nghĩ đến trong các sắc, chớ có nghĩ đến từ các sắc, chớ có nghĩ đến: “Các sắc là của ta”. Chớ có nghĩ đến nhãn thức … Chớ có nghĩ đến nhãn xúc … Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc... [Chớ có nghĩ tới tai... mũi... lưỡi... thân... ý... cho đến uẩn, giới, xứ...] Vị ấy không nghĩ đến như vậy nên không chấp thủ một cái gì trong đời. Do không chấp thủ nên không có dao động. Do không có dao động, vị ấy tự mình tịch tịnh một cách hoàn toàn. Vị ấy biết rõ: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”. (2)
 

Tuy nhiên, tập khởi ái đôi khi là tự nhiên, bởi vì tập khí nhiều đời. Đức Phật dạy rằng ngay khi thấy, là ly tham liền, thì đó là giải thoát. Trong Kinh SN 12.43, Đức Phật giải thích về đoạn diệt khỏ, theo bản dịch Thầy Minh Châu:

 

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là khổ đoạn diệt? Do duyên con mắt và các sắc, nhãn thức khởi lên. Do ba cái tụ hội, nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ. Do duyên thọ nên có ái. Do ly tham, đoạn diệt ái ấy một cách hoàn toàn nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não đều đoạn diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này. Này các Tỷ-kheo, đây là khổ đoạn diệt.[tương tự với tai, mũi, lưỡi, thân, ý]"(3)
 

Thực tế, không hề có cái gì gọi là thế giới, mà chỉ có thể nói có thế giới là duyên từ các căn khởi lên. Nghĩa là, thế giới là từ tâm khởi lên. Chúng ta từ vô lượng kiếp chấp rằng có ta, có người, có thế giời... Tuy nhiên, Đức Phật nói rằng tất cả không có chuyện có thế giới hay không có thế giới, mà tất cả chỉ là duyên theo mắt, tai, mũi. lưỡi, thân, ý... Kinh SN 35.68, bản dịch của Thầy Minh Châu ghi lời Đức Phật:
 

“… “Thế giới, thế giới”, bạch Thế Tôn, như vậy được nói đến. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là thế giới, hay là danh nghĩa thế giới?

—Chỗ nào, này Samiddhi, có mắt, có các sắc, có nhãn thức, có các pháp do mắt nhận thức, tại chỗ ấy có thế giới, hay danh nghĩa thế giới … (như trên) … Chỗ nào có ý, có các pháp, có ý thức, có các pháp do ý nhận thức, tại chỗ ấy có thế giới hay có danh nghĩa thế giới.

Và tại chỗ nào, này Samiddhi, không có mắt, không có các sắc, không có nhãn thức, không có các pháp do mắt nhận thức, tại chỗ ấy không có thế giới, hay không có danh nghĩa thế giới … không có ý … tại chỗ ấy, không có thế giới hay không có danh nghĩa thế giới.”(4)

Tới đây, hiển nhiên là Đức Phật muốn nói vạn pháp là do tâm hiển lộ. Ba cõi là tâm... hiển nhiên là nghĩa bí ẩn vô cùng. Đơn giản là, ngoài thế giới chúng ta kinh nghiệm, sẽ không có thế giới nào khác. Như thế, giác ngộ với giải thoát phải là ngay ở nơi mắt tai mũi lưỡi thân ý, không dựa vào chỗ nào khác.

Trong Kinh SN 35.23, Đức Phật dạy rằng: “—Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết về tất cả. Hãy lắng nghe. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tất cả? Mắt và các sắc; tai và các tiếng; mũi và các hương; lưỡi và các vị; thân và các xúc; ý và các pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, gọi là tất cả. Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: “Sau khi từ bỏ tất cả này, ta sẽ tuyên bố (một) tất cả khác”, thời lời nói người ấy chỉ là khoa ngôn. Và bị hỏi, người ấy không thể chứng minh gì. Và hơn nữa, người ấy có thể rơi vào ách nạn. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, như vậy ra ngoài giới vức (avisaya) của người ấy!” (5)

Tới đây chúng ta hỏi thêm, tại sao các Thiền sư ưa nói về Không. Ngay trong Kinh Nhật Tụng là có bài Bát Nhã Tâm Kinh, và nói rất minh bạch rằng Sắc (cái được thấy, nghe, ngửi, nếm, cảm xúc, tư lường) chính là Không. Ngay đó là không. Và ngay nơi Không cũng là thế giới hóa hiện. Dò lại Kinh điển, Đức Phật cũng từng nói như thế. Nói y hệt như thế.
 

Khi chúng ta dẫn ra giải thích của Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám sẽ thấy dễ hiểu hơn, cụ thể rằng cái bàn trước mắt chính là không, là vô ngã, là do duyên hình thành, không bấu víu vào đâu để nói là có. Dẫn ra trường hợp cái bàn, cụ Lê Đình Thám viết, trích: “Ví dụ như một cái bàn, nó cũng pbải đủ Nhơn đủ Duyên rồi mới thành cái bàn được. Nhơn của cái bàn tức là các thứ gỗ; gỗ lim thi đóng thành bàn lim, gỗ kiền-kiền thì đóng thành bàn kiền-kiền, nhơn với quả tụy có khác, nhưng cũng đồng một tánh-cách, hễ gỗ lim thì đóng thành bàn lim, chớ không thể nào đóng thành bàn kiền-kiền được. Song một mình gỗ cũng không đủ làm thành cái bàn, muốn đóng cho thành được cái bàn, lại cần phải có nhơn-công cưa, xẻ, bào, chuốt, ráp mộng, ghép ván nữa, những nhơn-công kia đều là những trợ duyên giúp đỡ cho cái nguyên-nhơn gỗ tạo thành ra cái bàn vậy. Chúng ta xét như trên thì biết cái bàn là một vật do nhơn-duyên sanh ra, tức là một cái nhơn-duyên-sở-sanh pháp. Vậy những nhơn duyên-sở-sanh pháp thiết-thiệt là thế nào? Đáp lại câu hỏi ấy, chúng ta nên lập câu kệ thứ hai, tức là câu: "Ngã thuyết tức thị không". Ngã thuyết tức thị không, nghĩa là tôi nói các nhơn duyên-sở sanh pháp kia tức là chơn không.”
 

Trong khi đó, Đức Phật không cần dài dòng. Đức Phật nói đơn giản rằng mọi thứ đều không có cái gì để gọi là cái gì. Trong Kính SN 35.85, Đức Phật dạy:

Ānanda, thế giới là không tự ngã, và không thuộc tự ngã, nên thế giới được gọi là trống không. Và cái gì, này Ānanda, là không tự ngã và không thuộc tự ngã? Mắt, này Ānanda, là không tự ngã và không thuộc tự ngã. Các sắc là không tự ngã, hay không thuộc tự ngã. Nhãn thức là không tự ngã, hay không thuộc tự ngã. Nhãn xúc là không tự ngã, hay không thuộc tự ngã … Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy không có tự ngã hay không thuộc tự ngã. Và vì rằng, này Ānanda, không có tự ngã, hay không thuộc tự ngã nên được gọi trống không là thế giới này.” (6)
 

Và vì thế giới trống không, vì mắt tai mũi lưỡi thân ý đều trống không, vì sắc thọ tưởng hành thức đều là trống không... cho nên đúng như Tuệ Trung Thượng Sĩ nói rằng bản nhiên là không và tịch.
 

Tuy rằng, ba cõi là tâm, nhưng giải thoát là, theo ngài Tuệ Trung:

Muốn cầu tâm, chớ tìm ngoài,

Bản thể như nhiên vốn không tịch.

Nơi đó đó, không đâu xa, rất gần đó, ngay trước mắt và ngay bên tai.
 

GHI CHÚ:

(1) Kinh Pháp Cú. Thầy Minh Châu. https://thuvienhoasen.org/p15a7961/pham-01-10

(2) Kinh SN 35.91: https://suttacentral.net/sn35.91/vi/minh_chau

(3) Kinh SN 12.43: https://suttacentral.net/sn12.43/vi/minh_chau 

(4) Kinh SN 35.68: https://suttacentral.net/sn35.68/vi/minh_chau

(5) Kinh SN 35.23: https://suttacentral.net/sn35.23/vi/minh_chau

(6) Kinh SN 35.85: https://suttacentral.net/sn35.85/vi/minh_chau

  

 

 




Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tuần này sẽ đánh dấu nhiều mốc ngoặc mới trong đại dịch vi khuẩn corona khi các trường hợp bị lây nhiễm tại Hoa Kỳ đã hơn 1 triệu, ngày càng có nhiều cơ sở kinh doanh tái mở cửa và một số nhân viên y tế địa phương bắt đầu thử nghiệm kháng thể cho công chúng, theo bản tin của CNN cho biết hôm Thứ Hai, 27 tháng 4 năm 2020. Tính tới Thứ Hai, Hoa Kỳ đã có 1,008,571 trường hợp bị lây, với 56,521 người thiệt mạng.
3 videos ngắn cho thấy “hiện tượng xuất hiện trong không gian không xác định” đã được công bố bởi Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. Các video, đã được phổ biến trước đây bởi một công ty tư nhân, cho thấy cái gì đó trông giống các vật bay không xác định di chuyển nhanh trong khi được thu hình bởi các máy thu hồng ngoại tuyến, theo CNN tường trình cho biết. 2 trong 3 video, các quân nhân có thể nghe được sự phản ứng các vật bay nhanh như thế nào. Một giọng nói cho thấy nó có thể là một chiếc robot.
Tháng Tư lại trở về, gợi nhớ đến ngày cuối cùng, lúc toàn miền Nam rơi vào tay đoàn quân xâm lược từ phương bắc, lần này là lần thứ 45! Trong ký ức của mỗi người dân miền Nam chúng ta, có biết bao nhiêu khúc phim lại được dịp hiển hiện, rõ ràng và linh động như vừa mới hôm qua. Có người nhớ đến cảnh hỗn loạn ở phi trường Tân Sơn Nhất, có người không sao quên được những năm tháng tù tội trong trại giam cộng sản, có người nghẹn ngào ôn lại cảnh gia đình ly tán trong những ngày kinh hoàng đó, và có biết bao người còn ghi khắc mãi những ngày lênh đênh trên sóng nước mịt mù hay băng qua rừng sâu núi thẳm để tìm đến bến bờ tự do.
Tối nay 22 Tháng Tư, chính quyền Trump đã ban hành một Sắc lệnh mở rộng những hạn chế về nhập cư trong một nỗ lực rộng lớn để tiếp tục chương trình bài ngoại nhằm đánh lạc hướng người Mỹ về thất bại của chính họ qua các giải pháp thích ứng với đại dịch coronavirus. Sắc lệnh này được xây dựng trên một số chính sách chống người nhập cư do chính quyền đưa ra trong vài năm qua đóng cửa gần như tất cả các con đường hợp pháp để nhập cư.
Bắt đầu từ sau giữa tháng Ba 2020, hầu hết các doanh nghiệp không thiết yếu trên khắp Hoa Kỳ đều đã lần lượt được lệnh phải đóng cửa để ngân chận sự lây lan của Coronavirus, trong đó có hàng chục ngàn tiệm Nail của người gốc Việt. Vì buộc phải đóng cửa một cách bất ngờ và cũng bởi chưa đến ngày trả lương theo định kỳ, nhiều chủ tiệm Nail đã không kịp thanh toán cho nhân viên khoản tiền lương của những ngày đã làm việc từ sau lần lãnh lương trước đó cho đến ngày ngưng làm việc vì Coronavirus. Ngoài ra, vì nghĩ rằng sẽ không bị buộc phải đóng cửa quá lâu, nhiều chủ tiệm Nail dự tính sẽ trả đủ tiền lương ngay khi nhân viên trở lại làm việc. Tuy nhiên, rất ít chủ doanh nghiệp hiểu rằng không thanh toán tiền lương theo đúng quy định cho nhân viên sau khi nghỉ việc, sẽ là nguyên nhân dẫn đến vô số rắc rối về pháp lý.
Những người có khuynh hướng cực đoan trong chính kiến, dù hữu khuynh hay tả khuynh, đều có những đặc điểm giống nhau và rất khác người ôn hoà. Bài viết này tóm lược một nghiên cứu tâm lý học đăng trên Sage Journals tháng Giêng 2019. Hy vọng nó sẽ giúp ta hiểu thêm về hiện tượng tâm lý chính trị cực đoan để tránh bị khích động, đồng thời giúp ta tìm ra cách hoá giải. Xin lưu ý “hữu khuynh”và “tả khuynh” trong bài được dùng theo định nghĩa thông thường và hoàn toàn không hàm ý tốt hay xấu. Trong chính trị học, cộng đồng con người thường được chia làm ba nhóm: cấp tiến (liberal), trung hoà (moderate) và bảo thủ (conservative). Sự phân cách này phần lớn xuất phát một cách tự nhiên, nhưng nó cũng có thể được nhào nặn thêm bởi giáo dục, truyền thống, truyền thông, xã hội v.v.
nhà báo kỳ cựu Don Oberdorfer trên tờ Washington Post ngày 3/3/1987 nhấn mạnh lời tuyên bố của trưởng đoàn IRAC: “Chúng tôi (người tị nạn) vẫn bị coi là một vấn đề cần giải quyết. Nay chúng tôi nhất định sẽ góp phần vào giải pháp.”
Tôi sinh ra đời tại miền Nam, cùng thời với “những tờ bạc Sài Gòn” nhưng hoàn toàn không biết rằng nó đã “làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ” của nửa phần đất nước. Và vì vậy, tôi cũng không thấy “phấn khởi” hay “hồ hởi” gì (ráo trọi) khi nhìn những đồng tiền quen thuộc với cuộc đời mình đã bị bức tử – qua đêm! Suốt thời thơ ấu, trừ vài ba ngày Tết, rất ít khi tôi được giữ “nguyên vẹn” một “tờ bạc Sài Gòn” mệnh giá một đồng. Mẹ hay bố tôi lúc nào cũng xé nhẹ nó ra làm đôi, và chỉ cho tôi một nửa. Nửa còn lại để dành cho ngày mai. Tôi làm gì được với nửa tờ giấy bạc một đồng, hay năm cắc, ở Sài Gòn – vào năm 1960 – khi vừa mới biết cầm tiền? Năm cắc đủ mua đá nhận. Đá được bào nhỏ nhận cứng trong một cái ly nhựa, rồi thổ ra trông như hình cái oản – hai đầu xịt hai loại xi rô xanh đỏ, lạnh ngắt, ngọt lịm và thơm ngát – đủ để tôi và đứa bạn chuyền nhau mút lấy mút để mãi
Chiến tranh Việt Nam có hai chiến trường: Đông Dương và Mỹ. Bắc Việt cố gắng kéo dài cuộc chiến trên chiến trường Việt Nam và đồng thời làm mệt mỏi công luận trên chiến trường Mỹ. Đứng trườc chiến lược này và kế thừa một di sản là sức mạnh quân sự, các tình trạng tổn thất và phản chiến đang gia tăng, Tổng thống Nixon cân nhắc mọi khả năng trong chính sách. Nixon quyết định chỉnh đốn các trận địa chiến cho miền Nam Việt Nam trong khi củng cố khả năng chiến đấu cho họ. Sự giảm bớt vai trò của chúng ta sẽ hỗ trợ cho công luận trong nước Mỹ. Trong thời gian này, Nixon cũng để cho Kissinger tổ chức mật đàm càng nhanh càng tốt.
Bất kỳ chiến lược nào để giảm bớt mối đe dọa từ các chính sách xâm lược của Trung Quốc phải dựa trên sự đánh giá thực tế về mức tác động đòn bẩy của Hoa Kỳ và của các cường quốc bên ngoài khác đối với sự tiến hóa bên trong nội bộ Trung Quốc. Ảnh hưởng của những thế lực bên ngoài đó có giới hạn về cấu trúc, bởi vì đảng sẽ không từ bỏ các hoạt động mà họ cho là quan trọng để duy trì sự kiểm soát. Nhưng chúng ta quả thực lại có những khí cụ quan trọng, những khí cụ này hoàn toàn nằm ngoài sức mạnh quân sự và chính sách thương mại. Điều ấy là những phẩm chất “Tự do của người Tây phương” mà người Trung Quốc coi là điểm yếu, thực sự là những sức mạnh. Tự do trao đổi thông tin, tự do trao đổi ý tưởng là một lợi thế cạnh tranh phi thường, một động cơ tuyệt vời của sự cách tân và thịnh vượng. (Một lý do mà Đài Loan được xem là mối đe dọa đối với Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, chính là vì nó cung cấp một ví dụ với quy mô tuy nhỏ nhưng lại hùng hồn về sự thành công của hệ thống chính trị và kin
Chết phải là một chuyến du lịch tuyệt vời vì chưa có một ai đã trở về!(“La mort doit être un beau voyage puisque personne n'en est revenue”). Thông thường trong những dịp Tết, người đời thường chúc tụng lẫn nhau sống thọ đến trăm tuổi. Không phải ai muốn chết lúc nào là chết được đâu. Phải tới số mới chết. Trời kêu ai nấy dạ mà Sống quá thọ có tốt, có cần thiết không? Không có ai nghĩ giống ai hết. Đặt câu hỏi như trên có thể làm nhiều người cảm thấy khó chịu, nhưng đó là sự thật. Tuổi thọ (longévité) trong điều kiện sức khoẻ bình thường, không ngừng gia tăng thêm lên mãi tại các quốc gia kỹ nghệ giàu có... Sự gia tăng nầy thật ra phải được xem như là một sự kéo dài của tuổi trẻ (jeunesse) hơn là một sự kéo dài của…tuổi già (vieillesse). Tại sao chúng ta già? Tuổi thọ đến lúc nào sẽ dừng lại? Nhân loại đã đạt được đến mức nầy hay chưa?
Nửa tháng trước hiệp định Genève (20-7-1954), trong cuộc họp tại Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Cộng), từ 3 đến 5-7-1954, thủ tướng Trung Cộng Châu Ân Lai khuyên Hồ Chí Minh (HCM) chôn giấu võ khí và cài cán bộ, đảng viên cộng sản (CS) ở lại Nam Việt Nam (NVN) sau khi đất nước bị chia hai để chuẩn bị tái chiến. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, Dương Danh Dy dịch, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 "Hội nghị Liễu Châu then chốt".) (Nguồn: Internet). Hồ Chí Minh đồng ý.
Vào lúc 5:00 giờ chiều Chủ Nhật 26/04/2020, Hòa Thượng Thích Phước Tịnh đã có buổi nói chuyện trên mạng lần thứ hai với nhóm Phật tử Giớ Trẻ Mây Từ, với chủ đề những điều Phật tử nên làm trong mùa đại dịch COVID-19 đang tiếp tục hoành hành.
New York bị thiệt hại nặng nề hơn bất cứ khu vực nào tại Hoa Kỳ bởi đại dịch vi khuẩn corona tính đến nay, 26 tháng 4, và ác mộng của tiểu bang vẫn còn chưa hết. Hôm Thứ Bảy, 25 tháng 4, có 5,902 người đã thử nghiệm dương tính với vi khuẩn corona, và trong khi đó là sự sút giảm từ cao điểm của tiểu bang (khi một ngày chứng kiến hơn 10,000 người thử nghiệm dương tính), tiểu bang này vẫn còn nhiều trường hợp bị lây mới hơn 25 tiểu bang đã bị trong tổng số hơn 3 tháng kể từ vụ lây lan của vi khuẩn vào Mỹ bắt đầu.
Nam Hàn tiếp tục đổ nước vào suy đoán gia tăng về sức khỏe của lãnh đạo Bắc Hàn Kim Jong Un, nói với CNN rằng ông ấy “còn sống và khỏe.” “Lập trường của chính phủ chúng tôi là vững vàng,” theo Moon Chung-in, cố vấn hàng đầu về chính sách đối ngoại cho Tổng Thống Nam Hàn Moon Jae-in, nói với CNN. “Kim Jong Un còn sống và khỏe. Ông ấy đã và đang ở tại khu vực Wonsan kể từ ngày 13 tháng 4. Không có biến đổi gì đáng nghi ngờ tính đến nay được phát hiện cả.”


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.