Hôm nay,  

Tái Sinh

27/12/201900:00:00(Xem: 14059)
Bo Tung Ma-Tai Sinh
Bồ Tùng Ma lãnh giải Việt Bút năm 2008, với Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, Tường Vi Lê, Kiều Chinh, tại Rose Center Theater. Từ bỏ trở đi. Ông trở thành Giám Khảo Tuyển Chọn Giải Thưởng VVNM.

Mới đặt chân đến Mỹ chưa được mười ngày ông Hai đã được ông James tặng một chiếc xe hơi. Ông James dẫn ông Hai băng qua cái sân rất rộng, vào nhà xe, chỉ một chiếc xe màu xám trắng nằm trên bốn bánh gần như không còn một chút hơi:
-Ford Mustang 65. Anh chỉ việc bơm bốn cái bánh lên là có thể lái nó đi phom phom.
Quả vậy, sau khi nhờ một người bạn -người đã giới thiệu ông Hai với ông James- lo mọi chuyện về bốn cái bánh xe, ông Hai đã lái xe đi phom phom... trong sân nhà ông James xong nhờ ông James lái nó về nhà mình, vì ông Hai chưa có bằng lái.
Nhà ông Hai thuê cách nhà ông James chừng một mile, thuộc loại rẻ tiền, không có chỗ đậu xe riêng, nên ông Hai hướng dẫn ông James đậu chiếc xe ngoài đường. Sau đó thỉnh thoảng ông vào xe rồ máy, nhìn trước nhìn sau xem thử có cảnh sát không, rồi de tới de lui, rất khoái chí.
Ông James là một cựu Sĩ quan Hải quân. Trong chiến tranh Việt Nam, ông là Hạm trưởng của một Hộ tống hạm (PCE). Ông ta biết ông Hai cũng là Hải quân nên rất khoái. Mới gặp ông Hai, James đã ôn đủ thứ chuyện về Việt Nam, sau cùng nói:
-Anh thích xe hơi không" Nếu anh muốn, tôi biếu cho một chiếc. Xe cũ thôi, nhưng rất ít mile, anh không thể tưởng tượng được trong vòng 20 năm nó chạy chưa tới 120,000 mile. Thằng Cuba ở bên cạnh nhà anh xin mà tôi không cho. Tôi không muốn một vật kỷ niệm quý giá như thế này lọt vào tay nó. Thằng ấy mà có được chiếc xe, sẽ xẻ ra từng mảnh đem về Cuba.
Ông Hai tò mò và thích thú ngắm chiếc xe. Xe kiểu cũ, chớ không hẳn là xe cũ. Thân xe sơn màu xám lợt, màu chiến hạm tiếp vận, trông vẫn còn khá mới. Nệm ghế màu xanh hải quân, không một vết sờn. Ông James khởi động máy và nhấn còi. Tiếng còi xe nghe như tiếng còi tàu, kéo dài lê thê, buồn rười rượi. Ông James cười nói:
-Tôi chế thêm ra đó.
Ông James mở cóp xe, chỉ cho ông Hai các vật dụng ở trong đó:
-Đây là thuyền phao, khi bơm lên, anh có thể an tâm ngồi trong đó mà câu cá, dù cho biển động đến sóng hai, sóng ba. Đây là cần câu. Đây là mồi giả. Đặc biệt xe này có một cái ghế sau rất nhẹ mà anh có thể tháo ra làm ghế ngồi câu. Ghế này cũng do tôi chế ra.
Ông James thở dài nói tiếp:
-Bao nhiêu đồ đạc đã ở cùng ta, chiếm mọi ngõ ngách trong nhà. Chúng không bao giờ phải chết cả nên càng ngày càng nhiều thêm lên. Thú thật những thứ tôi biếu anh là những thứ tôi không cần dùng nữa, nhưng lại không nỡ rời bỏ. Tôi biết anh là người mới qua, cần dùng những thứ này, ít ra cũng trong một thời gian vài năm.
Ông Hai cảm động nhìn ông bạn Mỹ. James đang lấy tay xoa xoa đầu chiếc xe như vuốt ve một đứa bé hay một con vật nuôi. Ông Hai không ngờ ở nơi xa xôi này lại có người có tâm hồn giống mình đến thế. Ngày rời khỏi trại cải tạo ông Hai đã không bỏ lại bất cứ một cái gì: cái lon Guigoz, cái áo trấn thủ làm bằng bao cát chống đạn, đôi đũa tre. . .; những vật dụng đã đồng cam cộng khổ với ông; nhất là cái lon Guigoz, gần như nó có thể làm đủ mọi chuyện: nấu ăn, đun nước, làm gáo múc nước và làm cái bô đi tiểu những lúc bị kẹt...
*
Gia đình ông Hai, gồm hai vợ chồng và đứa con trai, chuẩn bị dọn qua Los Angeles. Ông nói với bà:
-Mình sẽ qua đó bằng xe hơi. Từ Orlando qua đó hơn 2700 mile, đi mất chừng 3 ngày 3 đêm, kể cả nghỉ ngơi dọc đường. James đã chỉ cho tôi cách giải quyết mọi tình huống bất ngờ khi đi đường. Tôi cũng đã đem xe đi tune-up...
Nghe đến đây bà Hai kêu lên:
-Ông có điên không" Dùng một chiếc xe đời 65 để dưa vợ con đi từ Đại Tây Dương qua Thái Bình Dương.
Ông định cãi lại bà như thói quen gia trưởng xưa nay, nhưng rồi nghe bà nói cũng có lý nên ông bỏ ý định dùng chiếc Mustang. Tuy nhiên ông không biết nên để lại chiếc Mustang cho ai. Thằng Cuba thì nhất định ông không giao xe cho nó, ngay cả bán với giá 500 đô như nó đã trả. Ông cũng không muốn giao chiếc xe cho thằng con ông bạn ở ngay cạnh nhà, nó sắp có một công việc làm khá tốt, chẳng bao lâu nó sẽ cho xe vào nghĩa địa xe để mua xe mới. Ông suy nghĩ suốt hai ngày về việc này và cuối cùng mắt ông sáng lên, ông sẽ cho ông Danh chiếc xe. Chắc chắn ông Danh sẽ dùng chiếc xe ít ra cũng 4 năm nữa. Ông Danh đã 61 tuổi, đang ăn tiền bệnh SSI. Ông Danh nhác gan và lẩm cẩm, sợ Sở An Sinh Xã Hội cúp tiền bệnh nếu nghi ông hết bệnh, nên suốt ngày nằm nhà làm như bệnh nặng lắm. Nếu phải đi đâu ông Danh chỉ đi bộ, quấn khăn quanh cổ, ho hen sù sụ như sắp chết đến nơi. Ông vượt biên từ miền Bắc, từng sống trong một xã hội mà người dân hay dò xét nhau, việc này trở thành ấn tượng sâu đậm, nên khi đến Mỹ ông tưởng tất cả mọi người chung quanh đều dò xét ông, xem ông có đáng ăn tiền SSI hay không. Ông Danh rất thích xe hơi, nhưng nghe đồn ai lái xe và sở hữu xe là khỏe mạnh và có lợi tức, không ăn tiền SSI được, nên rất ngại mua xe, nhất là xe tốt. Sau khi nghe ông Hai ngỏ ý muốn cho mình chiếc xe hơi, mắt ông Danh sáng lên nhưng rồi tối ngay lại:
-Mà. . . mà tớ có lái xe được đâu. Từ ngày bị thằng biên phòng cho mấy bá súng vào đầu, mắt tớ không dược bình thường.
Ông Hai bực mình nói:
-Có lấy không" Nếu không, tôi cho người khác.
-Xe thế nào, đời mấy"
-Đời 65.
-Phải chi đời cũ hơn.
-Ngoài nghĩa địa cũng không có xe đời cũ hơn.
-Thế thì tớ nhận.
-Nhưng tôi lấy lại một cái ghế sau.
-Phải, phải. Như thế... tiện cho tớ hơn.
*
Hôm nay là ngày chủ nhật, ông Hai và người con trai đang thu gọn các đồ đạc trong nhà, nghĩa là tính xem nên bỏ đi và nên giữ lại cái gì, để chuẩn bị dọn sang nơi ở mới.
Bao nhiêu đồ đạc tích trữ từ nhiều năm trước chiếm nguyên cả cái nhà để xe, đến nỗi xe phải đậu ngoài đường. Những đồ đạc này phần lớn do bà Hai sắm. Bà là người thích mua sắm hay nói đúng hơn là có bệnh mua sắm. Bà càng có nhiều tiền, bệnh mua sắm của bà càng trầm trọng. Không những bà thích mua sắm áo quần và những đồ đạc lặt vặt khác mà còn thích mua sắm luôn cả những đồ chứa đựng các thứ này như hộp, thùng, tủ và những đồ chứa đựng kỳ cục khác. Đồ mua sắm này giống như thân phận của những cung phi, có khi được dùng đến, có khi bị bỏ quên, để rồi một thời gian sau trở nên cổ lỗ, không được ngó ngàng đến.
Người con trai ông Hai là người chủ chốt trong việc thu gọn nhà cửa lần này. Đã từ lâu anh ta nhất quyết "làm một cuộc cách mạng triệt để" vào những đồ đạc này, nghĩa là loại bỏ không nương tay những "thành phần" mà anh ta cho là không có lợi. Nhưng ông Hai lại không muốn vất bỏ chúng, ông muốn giành chúng cho những người mới đến Mỹ hay giữ chúng trong kho, chớ không nỡ để chúng nằm lăn lóc trong một đống rác hôi thối nào đó. Ông cảm thấy chúng như có linh hồn, lại có cả tình gắn bó với ông sau khi đã ở trong nhà ông một thời gian khá lâu.
Ông bất bình thấy người con vất một cách thô bạo những đồ đạc chứa trong nhà để xe lên chiếc xe truck nhỏ. Ông nói:
-Nhẹ tay một chút được không" Mình có thể đem cho mà.
-Gọi Good Will hai ba lần mà họ cũng không đến nhận, có lẽ họ chê. Ba xem này, cái lon đen thui cột chung với miếng giẻ rách...


-Mày nói sao" Cái lon, cái lon Guigoz, cái áo trấn thủ.
-Ba nói gì vậy"
-Mày đưa mấy thứ đó cho tao, các thứ còn lại mày muốn làm gì thì làm.
Ông giằng lấy cái lon Guigoz và cái áo trấn thủ nơi tay người con trai rồi bỏ đi, không nỡ nhìn những đồ đạc nằm ngổn ngang trên sàn nhà, như không dám nhìn những người thân yêu đang bị tra tấn hay bước lên đoạn đầu đài.
Đêm hôm đó ông nằm cố ru giấc ngủ nhưng không tài nào nhắm mắt được. Ông cố quên những đồ đạc nằm ngổn ngang ngang lúc chiều nhưng chúng cứ hiện ra trước mắt ông. Ông chợt nhớ đến chiếc Mustang 65. Đã từ lâu không liên lạc với ông Danh, ông không biết gì về chiếc xe cũng như chủ của nó. Ông nhớ lại khi ông giao chiếc xe cho ông Danh và ra về trời đang lất phất mưa. Những giọt nước mưa đọng trên hai cái đèn xe long lanh trong ánh nắng vàng vọt của buổi chiều tà, làm ông có cảm tưởng như chiếc xe đang rưng rưng lệ từ biệt ông. Ông nhớ đến chiếc ghế xe mà ông đã tháo ra và mang sang đây. Mấy năm trước mỗi khi đi Santa Monica câu cá, ông vẫn dùng chiếc ghế này. Ngồi trên ghế nhìn từng lớp sóng xô vào bờ từ biển xa, những con hải âu bay lượn trên nền trời xanh biếc, những con tàu màu trắng đục ở xa tít tận chân trời, ông có cảm tưởng như đang ngồi trên chiến hạm tuần tiễu cận duyên và nhớ lại một thời đẹp nhất trong cuộc đời mình. Tất cả đã xa rời, không bao giờ còn trở lại. Nhưng mà chiếc ghế xe, mới chiều nay nó vẫn còn... Ông ngước nhìn đồng hồ treo tường. Đã gần 2 giờ sáng. Ông nhổm dậy, bước qua phòng đứa con trai. Nó vẫn còn đang thức đọc sách.
-Hồi chiều mày có thấy chiếc ghế của ba không"
-Ghế gì"
-Cái ghế ba hay ngồi câu cá đó.
-Có vài thứ con vất trong thùng rác hay bỏ ngoài đường, không chở đi. Mà ba muốn gì vậy" Ba Mẹ đều... lẩm cẩm hết rồi! Đầu hôm mẹ khóc nguyên cả 1 giờ vì con vất cái ví đầm cổ lỗ sĩ của mẹ trong thùng rác.
-Mầy là người rất hời hợt, ngay cả ảnh tao chụp cho mầy hồi nhỏ mầy cũng vứt tùm lum, bây giờ vứt luôn cả vật kỷ niệm của mẹ mầy. Đó là cái ví tao mua tặng mẹ mày.
- Ở xứ Mỹ này mà ba mẹ. .. như vậy thì không bao lâu nhà mình biến thành cái thùng rác.
- Ba mẹ mầy như vậy thì mới có mầy; nếu mẹ mầy cũng hời hợt như mầy thì đã bỏ tao ngay khi tao còn ờ trong trại cải tạo. Còn tao...
-Nhưng cái gì cũng có sự chấm dứt chứ...
Ông không muốn nghe tiếp nữa, quay gót trở về phòng. Ông ngủ một giấc ngủ chập chờn vì mãi suy nghĩ mênh mang. Ông nhớ đến chiếc xe "rớm lệ" khi ông bỏ nó lại Orlando. Ông tưởng tượng chiếc ghế xe đang nằm co quắp trong đống rác hôi thối than trách ông. Ông bùi ngùi nói:
-Phải, cái gì cũng có sự chấm dứt. Cái gì rồi cũng có lúc tàn lụi. Cái gì có rồi cũng sẽ không có; ngay cả vũ trụ, trái đất; ngay cả thân xác tao rồi cũng sẽ đi theo mầy. Tất cả chúng ta sẽ gặp nhau tại một nơi, đó là nơi không-có-gì-cả. Việc gì phải than trách.
-Nhưng tôi chưa tàn lụi. Tôi chỉ mới bị sút vài cây đinh vít, vài con ốc. Ông chỉ việc lấy chiếc kèm vặn lại là xong, là có thể dùng tôi, một loại đồ đạc đã theo ông suốt mười mấy năm dài đăng đẳng, đã chịu đựng biết bao nhiêu thô bạo của ông. Ông còn nhớ không, rất nhiều lần, chỉ vì câu hụt một con cá nhỏ mà ông đã giận dữ ngồi phịch lên người tôi, làm tôi suýt rách nát cả da thịt.
Ông Hai ngồi nhổm dậy. Đồng hồ chỉø 4 giờ 30 sáng. Xe hốt rác sắp đến đem rác đi. Xe của mấy người Mễ đi lượm đồ phế thải cũng sắp tới. Ông Hai đi nhanh ra ngoài đường nhìn dáo dác rồi reo lên một tiếng mừng rỡ. Cái ghế vẫn còn nằm bên vệ đường.

***

Ông Hai nay là một ông già lụ khụ. Bà Hai đã mất. Ông giao ngôi nhà rộng thênh thang lại cho đứa con trai quản lý, ra ở nơi căn phòng mới chế biến từ cái nhà để xe. Việc này do ông tự nguyện sắp xếp, một sự sắp xếp có tình có lý theo nếp sống tự do của Mỹ. Ngôi nhà nay rất rộng vì bao nhiêu đồ đạc cũ đều bị vợ chồng người con trai vất đi hết. Ông Hai chỉ còn giữ lại một vài vật kỷ niệm của vợ ông và chiếc ghế xe.
Ở trong căn phòng nguyên là nhà để xe này, ông Hai có cảm tưởng như mình cũng là một loại đồ đạc sắp bị phế thải. Khi xưa ông cụ thân sinh ra ông ở Việt Nam chắc chắn không có cái cảm tưởng như ông ngày nay. Từ bao giờ, trước khi ông mở mắt chào đời, ông cụ đã ở trong ngôi nhà từ đường, chễm chệ ngồi trên bộ phản gõ kê ngay trước bàn thờ, bên cạnh biết bao nhiêu vật dụng để từ đời này sang đời khác, không ai dám có ý định vất đi vì những vật tổ tiên sắm ra không những là những kỷ vật thiêng liêng mà còn là của cải, chứ không phải chỉ là phương tiện. Ông cụ ở đó cho đến khi nhắm mắt lìa đời với đám con cháu chung quanh. Ông Hai nghĩ đến đây lòng buồn rười rượi.
Ông và những đồ đạc trong căn phòng này chẳng còn bao lâu nữa sẽ đến nơi-không-có-gì-cả, sẽ vĩnh viễn bị quên lãng trong đám cát bụi của trần gian.
Ít khi hai vợ chồng người con trai đến phòng riêng của ông. Ông càng ngày càng ít bạn bè, hầu hết họ đều ra đi về bên kia thế giới trước ông. Người khách vãng lai duy nhất ở đây là đứa cháu nội trai lên năm. Nó chẳng có nhu cầu gì nơi ông cả, nó không cần ông kể chuyện cổ tích vì đã có TV, nó cũng chẳng cần kẹo bánh vì ở xứ Mỹ này đồ ăn uống dư thừa, nhưng nó vẫn cà rà một bên ông.
Ông Hai vẫn còn đi câu cá hay nói đúng hơn là đi nhìn biển. Ít khi ông nhờ vợ chồng người con trai chở đi mà thường hay lủi thủi một mình đáp chuyến xe buýt số 4 đi Santa Monica. Xuống xe ông chỉ cần đi một đoạn đường ngắn là đến nơi.
Một hôm ông Hai cùng đứa cháu nội định băng qua đường để đi về phía biển thì thấy trên một đoạn đường có giăng cờ màu sắc rực rỡ, phía dưới có nhiều chiếc xe mới đủ màu đang đậu. Ông tò mò đi đến xem. Người ta đang quảng cáo xe. Đây là những chiếc Ford Mustang mới tinh đủ màu: xanh hải quân, đỏ, trắng xám... Ông Hai say mê nhìn mấy cái xe. Chúng đều phảng phất bóng dáng của chiếc Mustang 65, nhưng trẻ trung, xinh đẹp và tân kỳ hơn. Chiếc Mustang 65 có thể không còn nữa, có thể đã "chết", đã được nung chảy ra và tái sinh thành những chiếc xe này. Ông nhìn đứa cháu nội đang đứng một bên. Rõ ràng nó phảng phất bóng dáng của ông. Cũng như ông, nó có mớ tóc quăn phía sau ót, hai cái tai to, những ngón chân dài... Ông đang được "nung chảy" ra để trở thành nó. Thì ra là như vậy. Cái gì có sẽ không có, nhưng không phải về một nơi không-có-gì-cả, mà về một nơi nào đó để trở lại hoàn hảo hơn. Không thể nào có sự trường sinh bất tử theo nghĩa thông thường như người ta đã nghĩ. Nếu có sự này cách đây 70 triệu năm thì hôm nay trái đất chỉ toàn là khủng long.
Ông Hai mỉm cười rạng rỡ, cùng đứa cháu đi về phía biển. Hôm nay trời khá lạnh, lại có nhiều gió, những đợt gió từ đâu ngoài biển thỉnh thoảng xô vào người ông như ngầm bảo ông nên trở về, ở đây hôm nay không phải là ngày thích hợp với một người già cả. Nhưng mà ông đang thích biển, ông muốn ra nhìn biển vì biết đâu đây không phải là dịp cuối cùng.
Quả vậy, vài giờ sau đó người ta thấy có ông già ngồi chết bên cạnh một đứa bé đang ngủ say, tay đứa bé cầm cái cần câu, môi ông già vẫn chưa tắt nụ cười. Nếu không quan sát kỹ, khó biết được ai đã chết và ai đang ngủ.

Bồ Tùng Ma

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chiếc xe đò rẽ vào ngả ba Lộ Tẻ, chạy chậm lại rồi ngừng hẳn. Trên xe một số người nhốn nháo, ló đầu ra cửa sổ xem có chuyện gì. Anh phụ xe nhảy xuống vội vàng chạy về phía trước. Đã hơn 2 giờ chiều, trong xe hầm nóng và trở nên ồn ào. Vài phút sau, anh phụ xe trở lại và báo tuyến đường về Rạch Giá đã đóng vì nước lũ về ngập một số đoạn đường dài phía trước. Tất cả bà con phải xuống xe, hoặc tìm nhà nghỉ tạm chờ nước rút, hoặc bao đò máy về Rạch Giá. Đó là một buổi chiều giữa mùa nước nổi, tôi theo dòng người bước xuống xe, trời hanh nắng và đứng gió. Đường xá, đò ghe tôi không biết rành, chắc là phải tìm nhà xin trọ, chờ nước rút.
Rứa là tui được hưởng hai cái bánh nhỏ thanh tao dòn rụm, bột họ pha răng mà mê rứa không biết, kèm mấy lát vả, lát khế, rau sống chấm nước tương pha chế ngon ơi là ngon. Tỉnh táo bao tử rồi hắn chở tui đi vòng thành phố Huế, qua khu Thương Bạc, ủa bữa ni răng mà người đông rứa, bớt vẻ yên tĩnh như ngày xưa, tiệm quán cũng mọc lên khó còn đất trống. Vừa đi hắn vừa kể nỗi gian khổ lúc trẻ, nay thì hậu vận quá tốt, con có địa vị thành công, chồng cưng yêu nhiều hơn lúc tuổi xế chiều, mà nhìn kỹ hắn tươi đẹp mặn mà ghê, chắc hạnh phúc gia đình biến sắc thêm xinh hè. Đi nửa ngày hắn thả tui về nhà” tau bận chút chuyện, sẽ gặp mi sau nữa nghe. Tui cám ơn hắn, gần 50 năm tuy xa mà hắn vẫn nhớ, vẫn đầy tình bạn thân thiết như hồi mô.
Sàigòn cũng như Phan Rang không có 4 mùa, nhất là mùa Thu. Nhưng Sàigòn cũng như Phan Rang đều có những đêm trăng Thu mờ ảo đẹp và buồn giống như mắt của em.
Cuộc điện thoại đã dứt mà Tử Linh vẫn còn đứng tần ngần một lúc rồi mới quay trở ra hiên, ngồi xuống cái ghế gỗ mà khi nãy cô đang ngồi, vừa đọc sách, vừa nhâm nhi tách trà nóng và những chiếc bánh madeleine thơm mùi vanilla trước khi tiếng chuông điện thoại từ trong phòng khách buộc cô phải chạy vào...
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng, họ còn kháo nhau là mật thiết hơn cả tam tinh, tam điểm, tam tụ, tam anh… Chẳng cần kết nghĩa đào viên nhưng chúng sống chết có nhau, chưa bao giờ rời nhau một li hay một khoảnh khắc nào. Thỉnh thoảng cũng có xung đột giữa ba đứa nhưng rồi cũng trôi qua êm thấm. Cả ba nương tựa nhau, hỗ trợ nhau, sinh hoạt qua lại với nhau. Thật tình mà nói thì chỉ có hai mới đúng, vì thằng Tưởng vốn là đệ tử ruột của thằng Tâm mà ra, tuy nhiên vẫn có sự khác biệt nào đó nên thiên hạ cho là ba, nói cho cùng thì là bộ bà cũng đúng hay khắt khe bảo bài trùng cũng không sai.
Lật bật đã tới tháng 9 mùa tựu trường. Lòng nao nao nhớ thời học sinh nhỏ nhít đất thần kinh xưa. Ở Huế, mùa tựu trường cũng tưng bừng rộn rịp như bất cứ nơi nào khác trên đất quê nhà. Cũng bâng khuâng luyến tiếc những ngày hè tươi đẹp chóng qua. Cũng nao nức trở lại trường lớp gặp bạn thầy cũ, mới. Có khác chăng mặt mũi mấy cô mấy cậu học trò đều phảng phất một vẻ nghiêm trọng. Làm như mình đã trưởng thành tới nơi!
Cách đây 5 năm ông bà này có cho một cậu sinh viên Việt nam trẻ tuổi, đáng tuổi con cháu xin mướn phòng ở trọ học tại nhà ông bà cho đến đầu năm tới 2025, cậu sinh viên này sẽ tốt nghiệp đại học 4 năm với văn bằng cử nhân
Cũng như các trại tỵ nạn khác, ở Thailand cũng có một khu “nhà tù” dành cho những người tỵ nạn không chấp hành quy định của Bộ Nội Vụ Thái hay của Cao Ủy tỵ nạn. Thời hạn ở tù tùy theo mức độ phạm quy, có khi từ một vài ngày cho tới một hai tuần. “Tù nhân” cũng đủ loại, nhẹ thì có những người mua lén đồ ngoài hàng rào, thức quá giờ giới nghiêm, quên làm vệ sinh khu nhà được phân công, nặng hơn là thành phần đánh lộn, gây mất trật tự trong trại, trộm cắp vặt, trốn ra ngoài trại đi chơi.
Tháng 7 năm 1954, hiệp định Genève chia đôi đất nước Việt Nam, người Pháp thất bại ở mặt trận Điện Biên Phủ, trả lại chủ quyền miền Bắc cho việt cộng. Việt Minh kéo từ mạn ngược và khắp nơi chúng đã ẩn náu về tiếp thu thủ đô Hà Nội và sau đó, toàn thể các tỉnh thành phía Bắc cho vào tới vĩ tuyến 17. Chúng ta mất một nửa giang sơn. Pháp có 80 ngày chuyển giao Hà Nội, 100 ngày giao Hải Dương, 300 ngày trả Hải Phòng, rồi chấm dứt. Việt cộng nằm vùng trong miền Nam cũng tự do ra Bắc tập kết, dù rất ít, nhưng làn sóng người miền Bắc di cư vào Nam thì đông nườm nượp… như nước vỡ bờ, họ chạy trốn, họ sợ cộng sản, họ sợ cái chế độ tam vô đang rượt đuổi sau lưng. Họ ra đi lánh nạn, đa phần phải bỏ lại gia sãn của cải, mồ mả cha ông… họ ra đi nhanh, mau lẹ nhất là các thành phố Hà Nội Hải Phòng, các xứ họ đạo công giáo Bùi Chu, Phát Diệm… có người vội vã đến chỉ ôm theo một tấm ảnh đức mẹ Maria… họ rủ nhau cứ xuống Hải Phòng là có tàu há mồm, há mồm chờ sẵn, chờ họ lên tàu và chở họ vô miền Nam.
Hà Nội có mùa Thu, Ninh Thuận quê tôi ở đó chỉ có hai mùa nắng gió. Buổi sáng mai hôm ấy mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua con đường làng Xóm Động, rồi đến con đường cái quan tráng nhựa. Mẹ tôi nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua cầu "Ông Cọp", rồi cầu "Nước Đá" và đến tận cửa trường tiểu học Phan Rang. Tôi cúi đầu đi qua cổng trường có tấm biển lớn có hàng chữ Tây: "Indochine Francais- École Primaire De Phanrang"...Giữa sân trường có cột cờ với lá cờ ba màu của Pháp treo tận chót vót. Trường của tôi hình như vừa quét nước vôi và có cửa kiến, tôi thoáng nghe mùi cửa sổ mới sơn.
Trước năm 1975, ngày đó tôi còn là một cậu thiếu niên ham thích đọc tiểu thuyết trinh thám mạo hiểm của Người Thứ Tám với nhiều câu truyện phiêu lưu, hồi hộp của chàng điệp viên Z-28 đào hoa, đẹp trai Tống Văn Bình. Tôi còn nhớ chàng điệp viên tài giỏi, võ nghệ siêu quần của chúng ta được phái đi thi hành một nhiệm vụ tình báo tại Maldives, một đảo quốc mà khi chúng ta nhìn về phía chân trời, nơi Trời và Biển gặp nhau, vì chính chúng ta cũng đang sống trên mặt nước...
Khoảng gần ba giờ chiều tôi rời khách sạn Ninh Kiều, cuối đường Hai Bà Trưng, nhìn ra sông Cần Thơ. Trời hanh nóng và đứng gió. Giấc ngủ trưa dài sau bữa ăn nhẹ, khiến tôi tỉnh táo và phấn chấn hẳn lên. Hãy còn sớm, hai giờ nữa tôi mới có hẹn với gia đình người bạn thân ở nhà hàng Hoa Sứ. Thời gian đủ để tôi dạo chơi và ghé chợ Cần Thơ tìm mua một vài thứ đồ lưu niệm… Vài cơn gió nhẹ mang theo hơi nước từ dòng sông thổi dọc theo công viên thật dễ chịu. Bến Ninh Kiều ngày nay thật khang trang và đẹp. Đi dọc mé sông, từ đây tôi có thể nhìn thấy chiếc cầu treo Cần Thơ sừng sững, hiện đại. Phía trước khách sạn là nhà hàng nổi và không xa là chiếc du thuyền nhà hàng lộng lẫy về đêm. Du khách vừa ăn tối vừa dạo cảnh quanh sông và có cảchương trình văn nghệ thật đặc sắc của miền Tây sông nước


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.