Hôm nay,  

Chân Trời Cũ

08/02/202018:01:00(Xem: 5122)

      

Anh Nhất

Mau quá anh nhỉ, mới đó đã hai mươi chín năm. Không ngờ đi ăn cưới người cháu vợ ở Cali, gặp lại anh ở phố Bolsa sau gần ba mươi năm. Nhớ ngày nào bốn anh em: Ngọc, Nhất, Tâm, Thể, coi như tứ trụ vây quanh người anh đầu đàn, anh Lê Văn. Ngày 30/4/75 anh Lê Văn quyết tâm ở lại, anh ấy chịu đựng quá nhiều, chuyên chính vô sản tước đoạt anh thảm thiết. Biết bao mất mát. Năm 98 tôi về thăm nhà và ghé thăm anh ấy, sau bao nhiêu năm trăn trở, đầu anh Lê Văn bạc trắng. Lúc đó anh đúng 71 tuổi. Nụ cười vẫn trên môi. Anh cho tôi hay cách đó hơn một năm anh vừa thoát qua cơn máu nhồi cơ tim. Anh vẫn nhắc đến tụi mình và vẫn còn lo lắng cho chúng ta như thuở nào: “Ngọc và Tâm ở Pháp, còn ‘toi’ và Nhất ở Mỹ, sống cách nhau xa quá liệu có liên lạc với nhau chặt chẽ thường xuyên không? Đời sống anh em mỗi ngày một khá hơn chứ”?

Anh Nhất, anh biết không? Tôi đành nói dối: “Thời đại bây giờ mà anh. Có cách nhau những hành tinh đi nữa chỉ cần nhấc điện thoại là nghe được tiếng nói của nhau, hay lên mạng điện thư cho nhau là biết nhau ra sao rồi…”.

Thật ra cuộc sống tị nạn có nhiều ràng buộc, nhầm lẫn. Kẻ đến trước, người tới sau, gặp nhau cũng khó khăn. Đôi khi gặp nhau lại không nhìn ra nhau. Nhưng khi nghe tôi nói thế, anh ấy rất mừng rồi anh tự cho mình: “À, ‘moi’ quên đi, thời đại tín học, thời đại computer. ‘Toi’ thấy chưa?‘Moi’ lạc hậu quá rồi ”. Nói xong anh cười phá lên. Tiếng cười thật là hào sảng. Anh thật thà kiêu hãnh có những đứa em như chúng ta. Ấy thế mà 8 tháng sau, anh lại qua đời vì tai biến mạch máu não. Nhớ ơn anh ở lại với tổ quốc, và gần hơn 20 năm làm giám đốc bịnh viện, tất cả dân chúng của thị xã tiễn đưa anh đến nơi an nghĩ cuối cùng.

     Nhắc lại chuyện xưa, đôi khi khiến chúng ta ngậm ngùi. Tôi mường tượng lại những lúc riêng tư anh Văn thường nhắc nhở “ ‘Moi’ đã làm việc trên Bộ với anh Trần Minh, chức Trưởng Vùng Y tế thì giao cho Ngọc, Trưởng Vùng Dược thì giao cho Nhất, Trưởng Ty Y tế thì giao cho Tâm, ‘toi’ còn trẻ, còn nhiều nhiệt huyết thì làm Giám đốc trường Cán Sự Điều Dưỡng. Trường chưa đầy 2 tuổi, như em bé vừa mới biết đi chập chững, ‘toi’ chịu khó chăm sóc ngôi trường ấy, hiện tại nó được coi như là Trường Y duy nhất tại Vùng 4- Đồng bằng sông Cửu long. Còn ‘moi’ già rồi thì lui về tiếp tục làm Giám đốc bịnh viện Thủ Khoa Nghĩa..”

      Những gì chúng ta làm trước 75, nói là chuyện gì ghê gớm lắm, to tát lắm quả nhiên là không phải. Chuyện của một nhóm người, của một vài người cùng chung lý tưởng như chúng ta, đã cố gắng thực hiện lý tưởng của mình trong mịt mù của bom đạn thuở đó đều bé nhỏ so với cả nước.

Chúng ta lớn lên trong chiến tranh, trực tiếp tham dự vào cuộc chiến. Mỗi thời đại có mẫu người riêng của nó. Trong chiến tranh con người là nạn nhân và cũng là chứng nhân của cái chết thê lương, trong chiến hào, ngoài mặt trận, trong tù ngục, hay giữa thành phố, dưới gầm cầu. Con người trong chiến tranh có cả tình yêu lẫn hận thù, sự sống và cái chết. Cái chết thì nghiệt ngã. Tình yêu thì sáng ngời. Hận thù thì ngút ngàn. Ấy thế mà chúng ta vẫn hiên ngang sống, nhiệt tình sống, kiên trì phuc vụ đất nước và dân tộc.

Bây giờ ngồi hâm nóng kí ức của mình trong thời điểm ấy, những việc làm đó đối với chúng ta, không hẳn là niềm tự hào to tác lắm, nhưng cũng không phải là những gì dễ xoá mờ qua năm tháng.

      

 Như anh biết, anh Lê Văn và tôi ở lại sau ngày 30/4/75. Chúng tôi nhận những tai họa ngay trước mắt. Cộng sản trở tay quá sớm. Họ làm hoàn toàn trái ngược những gì họ nói trước khi họ chiếm trọn miền Nam. Họ coi tất cả những người bên này vỹ tuyến 17 là kẻ thù cần phải triệt hạ, cải tạo. Ngay trong 24 giờ đầu, tất cả anh em bác sĩ ở lại đều được lệnh tập trung đi tù cải tạo. Chỉ có bác sĩ Lương Khai, Nguyễn Quốc và tôi không bị gọi tập trung đi tù cải tạo, vì chúng tôi thuộc thành phần trẻ, không có trong quân ngũ, không dính dáng đến chính trị. Nhưng bác sĩ Lương Khai và Nguyễn Quốc thuộc sản phụ khoa. Như vậy khoa ngoại có hơn 10 bác sĩ phẫu thuật, bây giờ chỉ còn có mình tôi…

Đầu ngành khoa ngoại của bịnh viện Thủ Khoa Nghĩa sau 30/4/75 là một bác sĩ cách mạng Nguyễn văn Ngôn thường gọi là Út Ngôn. Út Ngôn là bác sĩ của ‘R’, gốc người Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long, nguyên là lính của ‘Tiểu đoàn 307’, tập kết ra Bắc năm 1954, tốt nghiệp y khoa Hà nội, hệ chính qui, chuyên về sọ não. Đó là những gì Út Ngôn tự giới thiệu trong buổi giao ban đầu tiên của khoa ngoại trong ngày tiếp quản. Trong dịp này anh cũng ‘tố’ cha anh là một tên đại điền chủ khoa cử, có nhiều vợ. Anh ta là con của bà vợ thứ. Mẹ anh là chị ruột của một bác sỹ chuyên khoa tiết niệu. Vì hỗ thẹn với thành phần giai cấp gia đình anh tự giác ngộ đi theo Cách mạng lúc mười sáu tuổi.

 Lúc đầu chưa có kinh nghiệm với họ, tôi cứ tưởng anh ấy là tên cộng sản nghiệt ngã, ác ôn sớm đầu tối đánh, phản lại cha mẹ giòng họ và gia đình. Nhưng tôi lầm. Sau này tôi mới hiểu, sở dĩ Út Ngôn nói nhiều như vậy không ngoài mục đích anh cho chúng ta thấy anh cũng thoát thai từ gêne khá tốt: trí thức tư sản.

    Đến ngày mùng 5 tháng 5, năm ngày sau ngày tiếp quản, Ủy Ban Quân Quảng quyết định chuyển qua bịnh viện dân y Thủ Khoa Nghĩa tất cả gần 3 trăm thương bịnh binh quân đội Việt Nam Cộng Hòa đang điều trị bên quân y viện Phan Thanh Giản. Thế là khoa ngoại phải nhận tất cả thương bịnh binh của ta, quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng khoa ngoại chúng tôi đâu có đủ bịnh phòng tiếp nhận anh em. Bác sĩ chỉ có một mình tôi. Phần lớn bác sĩ Út Ngôn coi về chính trị, tôi coi về chuyên môn. Tôi đốc thúc nhân viên cũ cûa mình dọn dẹp lại trại xương, trại 19, trại 14, trại 21 tạo ra nhiều phòng hơn cho các anh em. Chúng tôi chỉ có 24 giờ để sửa soạn tiếp nhận thương bịnh binh của ta.

    Anh Nhất, anh có biết gần 300 bịnh binh của ta di chuyển qua tôi như thế nào không? Chỉ có mươi mười lăm người chuyển qua tôi bằng vài chuyến ambulances, vì họ suy kiệt nặng quá. Như anh biết Viên Dân Y và Viện Quân Y có chung một bức tường. Nơi bức tường ấy có một cửa thông qua hai bịnh viện. Thường thì cửa này khóa chặt, Viện Quân y giữ chìa khóa. Biết thế các thương bịnh binh ta yêu cầu cách mạng mở cửa và anh em tự di chuyển qua tôi. Nhiều người cứ từng cặp dìu nhau đi qua cửa ải. Họ đùm túm dắt díu nhau qua gặp tôi. Có anh em mừng, có người gần như muốn khóc khi tôi đến nâng dìu họ lên giường bịnh. Có anh mừng quá la lớn: “Gặp được phe ta rồi! Mấy ngày rồi thiếu thuốc men bác sĩ ơi! Cơm nước toàn do vợ nuôi. Nếu không có gia đình ở đây thì ăn cơm ‘chỉa’ với anh em”.

     Ủy ban quân quản và Thành đội thành phố ra lịnh chúng tôi không được giử anh em thương bịnh binh ta trong viện quá 10 ngày. Tôi thầm kín huy động tất cả nguồn nhân lực và thuốc men còn lại của ta đổ dồn hết vào việc điều trị cho anh em. Cũng may vào thời điểm đó cũng còn quá sớm Cách mạng chưa kịp để mắt đến, kiểm kê hay kế hoạch phân phối kho thuốc của Vùng mà anh để lại. Trong thời gian này tôi có dịp đi qua thăm Quân y viện của bộ đội cách mạng. Tôi cũng đi ngang qua cái cửa ải đó để ký giấy tờ thâu nhận các anh em thương bịnh binh ta. Tôi mục kích cả một sự đau lòng: quân đội cách mạng thiếu hụt thuốc men, băng bó và lều trại bê bối. Sau cuộc chiến chúng ta mới có đủ thì giờ và cơ hội nhìn thấy vết thương đang chảy máu của nhau…

 

       Trong chiến tranh không có kẻ chiến thắng, chỉ có nạn nhân chiến tranh. Chiến tranh gây ra nghèo đói, đổ nát, lạc hậu, ngộ nhận, hận thù phi lý. Niềm kiêu hãnh lớn của anh em chúng ta và cả nước hôm nay là chúng ta cố gắng đoàn kết với nhau, đứng lên từ đổ nát của chiến tranh, bảo vệ hòa bình, phục hồi kinh tế, cũng cố độc lập thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng lại lòng tin yêu nhau, xóa bỏ những nhầm lẫn gây ra do cuộc chiến quá dài.

Nhưng đó không phải là chuyện dễ làm. Có nhiều âm mưu, gọng kềm quốc tế, ngăn cách và bủa vây dân tộc ta trong thời hậu chiến.

Tội ác lớn nhất của mọi thời đại là những kẻ xuyên tạc lịch sử chỉ vì lơi ích riêng cho họ, cho bè lũ của họ, cho phe phái của họ.  Phải không anh?

     Sau 30/4/75 hòa bình trở lại vĩnh viễn trên đất nước. Ai cũng chăm lo vun xới lại ruộng vườn, cày sâu cuốc bẩm tăng gia sản xuất. Nói nghe văn chương vậy chứ thật sự lúc đó ai cũng đói. Họ đâu có biết dưới lớp đất chôn sâu dưới chân họ là bãi mìn đủ loại, đủ cỡ, mang nhiều danh tánh khác nhau: mìn nhái, mìn cóc, mìn râu, mìn rùa, mìn kíp…

Một mặt trận mới vừa bung ra sau ngày thống nhất đất nước, mặt trận lao động sản xuất. Đó là cuộc chiến bi thương của thời hậu chiến. Cuộc chiến giữa nông dân đối đầu với những cốt mìn tự động, âm mưu thâm độc của kẻ xâm lăng. Từ đồng bằng miền Trung đến đồng bằng Sông Hậu và khắp cả núi rừng Trường sơn đều là những bãi mìn. Có anh nông dân nạn nhân của mìn, vì đau đớn quá anh la lớn tại phòng cấp cứu khoa ngoại, “Tất cả mìn nhỏ này đều từ máy bay thả xuống, chun vào đất nằm chờ…chúng tôi biết hết chớ, nhưng phải đổi bát máu lấy bát cơm..”.

  Câu nói này xem như điệp khúc bi hùng sau chiến tranh. Rất tiếc các anh không ở lại cùng chúng tôi, để cùng nhau san sẻ những năm tháng bi tráng ấy của cả nước trong thời hậu chiến.

    Út Ngôn hiểu biết về chuyên môn quá yếu trong 2 năm đầu tiếp quản, nên công tác phẫu thuật của anh bị giới hạn. Theo nguyên tắc tôi là bác sĩ Ngụy không được mổ ‘cán cao’, nhưng cấp cứu tôi cũng phải mổ. Út Ngôn đứng bên cạnh tôi phụ tôi đồng thời để học hỏi, bác sĩ Y vụ đứng sau lưng tôi theo dõi. Bác sĩ Y vụ lúc ấy là Hoàng quang Ánh đâu biết gì về chuyên môn, ông ta người Nghệ an, thuộc loại bác sĩ bổ túc, bác-sĩ-đi-chân-đất. Phần nhiều bác sĩ, dươc sĩ, bổ túc họ từ thành phần y-công mà tiến lên.  Họ thủ thế với mình kỷ quá. Không tin mình về chính trị, nhưng họ phải sử dụng mình trong chuyên môn. Làm việc gì mình cũng phải ngó trước ngó sau, phải hỏi ý kiến thủ trưởng. Thủ trưởng của tôi là Út Ngôn. Mình cũng khổ mà Cách mạng cũng khổ. Út Ngôn nhiều lúc bảo tôi: “Em thận trọng phải gặp anh trong mọi quyết định phẫu thuật” và anh nói giọng nhỏ hơn vừa đủ cho tôi nghe: “chủ yếu là để bảo vệ cho em..”.

Cộng sản thường rêu rao: “trước mặt thầy thuốc tất cả mọi người đều bình đẳng…”. Không đâu anh. Cộng sản là chế độ có nhiều giai cấp. Cán bộ thì có: Sơ, Trung, Cao. Ăn uống thì cũng có: Tiểu táo, Trung táo, Đại táo…Khi nằm viện thì chế độ bịnh phòng cũng khác. Trong cuộc sống hằng ngày cũng vậy, chế độ sinh hoạt rất khác nhau: kẻ thì hưởng thụ theo khả năng (khả năng làm việc), người thì hưởng thụ theo nhu cầu (họ cần gì thì có cái đó cho họ). Ngày xưa ở những năm 50 ở thế hệ của chúng ta các anh em đọc “Les Nouvelles Classes” của Djlas. Lúc đó anh em chúng ta có người còn ngờ ngợ.  Sau năm 75 giáp mặt với thực tế, nghĩ mà thương Djlas bị Tito vùi dập.

 

    Bác sĩ Nguyễn Văn Ty, đầu ngành Ngoại Tim mạch của bịnh viện Việt Đức tại Hà nội, nguyên Trung tá bác sĩ tham chiến chiến trường Điện Biên, tháng 10 năm 1976 ông đi tham quan các bịnh viện ở các tỉnh phía Nam. Không hiểu vô tình hay cố ý, vừa ghé thăm ban lãnh đạo bịnh viện Đa Khoa Hậu Giang, tuyến sau cùng của Khu 9 Tây Nam Bộ, bác sỹ Nguyễn Văn Ty liền xuống thăm phòng phẫu thuật. Bác sĩ Ty, gặp tôi trước cửa phòng Cấp Cứu Hồi Sinh của khoa ngoại, anh gọi tên tôi trong giọng thân mật như đã quen thân nhau lâu lắm:

- Anh Thể đó hả! Tôi đến gặp anh đây. Anh vẫn bình thường chứ? Tôi là bác sĩ Ty, bác sĩ đầu ngành ngọai tim mạch ở bịnh viện Việt Đức, Hà nội. Gớm! Cái anh này trẻ thật, trẻ quá đi thôi…quí hóa quá…

Thú thật tôi hòan toàn bị động trước lời lẽ chân thật và đầy thương yêu của anh ấy. Còn anh ấy đang có ý nhìn chung quanh. Tôi ngỡ là anh đang quan sát phòng cấp cứu của tôi. Tôi ấp úng nói:

- Thưa anh…

Tôi chưa kịp nói tiếp, anh liền phác tay:

- Phòng cấp cứu hồi sinh tổ chức khéo quá, bề thế mà không kềnh càng, trang bị tối tân.

Sau khi trao đổi với tôi một vài ý kiến về chuyên môn trong phòng hồi sinh, anh nắm lấy cánh tay tôi, chúng tôi cùng ra ngoài. Anh nói:

- Ở đây mát quá anh nhỉ. Nhờ sông Bassac rộng. Anh rán làm việc. Người ta sẽ tin mình. Năm năm người ta không tin mình thì mười năm; mười năm người ta không tin mình thì hai mươi năm, ba mươi năm người ta cũng phải tin mình. Như tôi bây giờ vậy, anh thấy chưa? Nói xong trán anh đượm mồ hôi, anh xoắn tay áo lên tận khuỷu. Tôi thoáng thấy một khoảng tím bầm như xuất huyết dưới da nơi khuỷu tay anh. Tôi nắm khuỷu tay anh tôi hỏi:

- Sao vậy anh?

Anh cười. Anh phủ tay áo lại. Anh nói:

- Cách đây năm hôm, trước khi đi thăm quan các bịnh viện thuộc các tỉnh phía Nam, tôi bán nửa lít máu để lấy tiền bồi dưỡng cho cậu con trai tôi luyện thi vào trường Y  Hà nội. 

Nghe nói thế, tôi há hốc nhìn anh. Anh lại phác tay:

- Có gì đâu. Rồi anh sẽ cũng như tôi.

Anh trông có vẻ vội vã. Hình như anh đang phát hiện một điều gì. Anh nói:

- À, tôi đi thôi. Mai sẽ gặp lại anh để thăm khoa phòng khoa ngoại. Anh bắt tay tôi. Anh đi nhanh. Anh nói ngoái lại:

- Anh còn trẻ chán. Không có gì là muộn đối với anh cả…

Bác sï Ty v¶i bܧc Çi rÃt nhanh. Hình nhÜ anh Ãy không bi‰t r¢ng tôi Çang suy nghï rÃt mông lung vŠ câu nói cûa anh Ãy. Thú thÆt tôi Çang bÓi rÓi, làm sao tôi có th‹ tin tܪng câu nói cûa m¶t ngÜ©i công sän nhÜ anh? Và tôi cÛng không dû can Çäm nghï r¢ng tÃt cä câu nói vØa rÒi cûa bác sÏ NguyÍn Væn Ty ÇŠu là dÓi trá.

Tôi quay lai, vào phòng cấp cứu hồi sinh, tôi thoáng bắt gặp ánh mắt của bác sĩ Nguyễn Văn Xuyền ẩn sau tấm cửa ‘porte battante’ anh vừa theo dõi câu chuyện chúng tôi. Bác sĩ Xuyền vào khoảng 35 tuổi, bác sĩ bổ túc, chuyên về Nội khoa, người Bắc, cán bộ chi viện cho Miền Nam Việt Nam từ Hà Nội. Anh là lãnh đạo thanh niên bịnh viện từ năm 1975. Anh ca bài “Hà nội- Niềm Tin và Hy vọng” của nhạc sĩ Phan Nhân nghe khá hay.

 

Tình thế càng khó khăn bấy nhiêu, tôi và bác sĩ Út Ngôn càng làm việc khắng khít với nhau bấy nhiêu. Có lúc anh em thật gần gũi. Những lúc đó, anh có nói những câu xa gần, đại khái là tay nghề của anh bây giờ khá vững nhờ những năm làm việc chung với nhau. Anh không bao giờ quên những chặng đường ấy. Nói xong anh vội bước đi, để mặc tôi ngơ ngác với câu nói của anh. Tôi suy nghĩ mãi về anh như lần đầu tôi gặp bác sĩ Nguyễn Văn Ty. Trong bác sĩ Nguyễn văn Ngôn lại có một bác sĩ Nguyễn Văn Ty. Có phải chăng trong con người cộng sản trí thức, con người quốc gia vẫn còn chôn sâu trong tận cùng tâm hồn họ?

 

Chủ nhật cuối tháng hai năm 1979, lúc 2 giờ sáng tôi được điều vào bịnh viện để mổ cấp cứu cho một cán cao của tổ chức công an biên phòng. Ông ta bị thương trong một cuộc đụng độ với người vượt biên do biệt kích Mỹ tổ chức. Tôi chỉ nghe nói vậy. Ông ta bị thương rất nặng. Dĩ nhiên có các ông Ủy viên Y tế Tỉnh, bác sĩ Giám đốc, bác sỹ Y vụ, bác sĩ Út Ngôn đứng bên cạnh tôi trong phòng phẫu thuật. Sau 3 giờ liền can thiệp phẫu thuật tình trạng bịnh nhân được ổn định. Lúc đó 5 giờ sáng. Theo đề nghị của bác sĩ Y vụ, tôi ngủ lại phòng bác sĩ trực thay vì về nhà.

Vì mệt, vừa đặt lưng xuống tôi ngủ ngay thẳng giấc đến sáng. Khi thức dậy đã 8 giờ sáng. Tôi làm giường, tháo mùng lật gối. Khi lật gối, tôi giật mình khi thấy một cây súng ngắn đặt dưới gối nằm của tôi. Tôi vô cùng sợ hãi và bối rối khi nghĩ lại đêm qua tôi ngủ gối đầu trên cây súng ngắn mà tôi không hay. Tôi không dám sờ tới nó. Tôi bàng hoàng suy nghĩ. Như thế này thì hết tình hết nghĩa rồi! Tôi không ngờ tôi lại rơi vào hoàn cảnh bức bách như bây giờ. Vấn đề tôi phải ra đi trở thành bức xúc với cách mạng đến thế sao? Tôi muốn biết tại sao như vậy? Sau cây súng ngắn này Cách mạng sẽ vẽ chuyện gì nữa đối với tôi? Với gia đình tôi? Nhìn đồng hồ thấy hơn 8 giờ sáng, tôi bốc điện thoại gọi Mười Nhân, bác sĩ bịnh viện trưởng và cho ông ta hay là có kẻ xấu lận cây súng ngắn dưới gối nằm của tôi tại bịnh viện trong đêm qua. Ông ta trả lời trong một giọng rất bình thường:

- À, cây súng ngắn phải không? Chắc Út Ngôn đêm qua, cùng tôi xuống thăm bác sĩ mổ cấp cứu, anh ấy ghé phòng trực bác sĩ, chính anh ấy làm giường và treo mùng cho bác sĩ nghỉ sau khi mổ cấp cứu. Hình như sau đó anh ấy dấu cây súng dưới gối nằm của bác sĩ. Hồi khuya lúc về anh ấy quên ghé lấy. Bác sĩ cứ gọi cho anh Út Ngôn hay. Anh ấy sẽ đến lấy hay anh ấy cho các em bảo vệ đến lấy. Sau đó tôi gọi bác sĩ Út Ngôn, cũng trong giọng bình thường anh ấy bảo là anh ấy bỏ quên cây súng dưới gối nằm của tôi và anh ấy sẽ bảo các em bảo vệ đến lấy. Cũng như bác sĩ bịnh viện trưởng bác sĩ Út Ngôn không một lời xin lỗi tôi.

Chuyện cây súng ngắn bỏ quên dưới gối nằm của tôi như một quả lựu đạn nổ tung trong bịnh viện, mặc dầu tôi muốn giữ kín chuyện đó, tôi không muốn gây ra tư tưởng hoang mang của các nhân viên trong bịnh viện. Thật tình mà nói lúc nào tôi cũng quí anh Út Ngôn. Tôi thật sự cảm động khi nghe bác sĩ bịnh viện trưởng cho tôi hay là chính anh Út Ngôn giăng mùng làm giường cho tôi ngủ đêm hôm đó. Có điều lạ là người bung tin cây súng bỏ quên dưới gối nằm của tôi lại là một bác sĩ Cách mạng, bác sĩ Xuyền, bác sĩ bổ túc, chuyên về nội thương, chi viện từ Hà nội, lãnh đạo thanh niên trong bịnh viện từ năm 1975! Thật sự, từ đầu năm 78 những lúc rỗi rảnh và hình như chiều nào anh cũng có những lúc rỗi rảnh đó, bác sĩ Xuyền thường lội qua khoa ngoại, tìm gặp anh em bác sĩ chính quyền cũ còn được lưu dụng, anh cứ nói xa gần là khuyến khích chúng tôi bỏ nước ra đi: “Các anh ở lại làm gì? Ai tin các anh mà các anh ở lại! Không lẽ các anh quyết tâm ở lại chờ ăn độn với chúng tôi? ”.  Khi nói về sự tích cây súng ngắn bỏ quên dưới gối nằm của tôi, bác sĩ Xuyền bao giờ cũng chua thêm: “Tôi như bác sĩ Thể tôi đi thôi. Bạn bè đi hết, hà cớ gì bác sĩ Thể ở lại một mình?”

 

Tôi đem chuyện cây súng nói cho anh Lê Văn hay, anh ấy rất lo cho tôi. Anh Lê Văn khuyên tôi: “cũng không có gì là muộn cả, ‘toi’ còn trẻ hãy lo liệu mà đi thôi. Anh em ai cũng bỏ chạy cả rồi. Và Cách mạng đã quyết tâm như vậy, biết làm sao bây giờ? Thôi thì tổ chức đi đi, có thiếu hụt thì moi tiếp tay cho”. Anh Nhất, khi nhắc lại giai đoạn này tôi cảm nhận sâu sắc tấm lòng hào hiệp của anh Lê Văn. Anh ấy lúc nào cũng cưu mang chúng ta.

 

Anh Nhất, khi tôi viết đến những dòng này cả nước Mỹ đang bước vào mùa bầu cử tổng thống cho nhiệm kỳ 2004-2008. Tại đại hội của đảng Dân chủ, ứng cử viên sáng giá của đảng Dân chủ John Kerry, được giới thiệu đến đại hội và những cử tri hâm mộ, ông ta là một con người được đào tạo từ chiến tranh Việt Nam (a man forged in VietNam)! Một người bạn của John Kerry cũng là cựu chiến binh tại Việt Nam, đã khẳng định tại đại hội:“Với cựu tổng thống Jimmy Carter nhờ có cánh đồng đậu phọng tại Georgia, với Bill Clinton nhờ có tư tưởng “Người Đến Từ Hy Vọng”, (man from hope), với John Kerry ông sẽ thắng cử nhờ ông có ViệtNam!(he does have VietNam)”…Những cuộc vận động tranh cử tổng thống Mỹ từ thời tổng thống Lyndon Johnson, 1964, trong suốt 40 năm qua và nhiều thập niên tới nữa của thế kỷ thứ 21 vẫn khét mùi thuốc súng của chiến tranh Việt Nam.

 

     Ngày 4/4/79 tôi mang vợ con, rời bỏ tổ quốc. Sau đúng 25 năm sống lưu vong tại Mỹ, bây giờ ngồi viết thư cho anh cũng để hâm nóng lại ký ức của chúng mình. Nhìn lại những chặng đường dân tộc, tổ quốc và bản thân chúng ta đã đi qua, tôi nghe rạt rào xót thương mừng tủi, thấy lòng mình kiêu hãnh về lịch sử đấu tranh của giống nòi. Tổ quốc vẫn gần gũi với ta như vú mẹ từ thuở sơ sinh. Anh Lê Văn đã ra đi, nhưng những đóng góp tích cực và cống hiến của chúng ta cho tổ quốc khi anh Le Văn còn sống vẫn còn đó. Hẳn nhiên nó không phải là những gì ghê gớm lắm, to tát lắm, nhưng những cống hiến ấy không thể bị xóa mờ qua năm tháng trong tâm hồn của chúng ta…

      Anh Nhất, xa nhau lâu quá. Thời gian có thể làm tàn phai đi những gì đáng nhớ giữa chúng ta. Chiến tranh và cuộc sống đã xô giạt chúng ta đến những bến bờ xa lạ. Dù sao đi nữa chúng ta cũng không thể nào quên được có một thời chúng ta cùng chung lí tưởng. Tôi hy vọng anh đồng ý, dù cänh trang lÎch sº ÇÃt nước hôm nay tÓt hay xÃu, chúng ta cÛng có một phần nào trách nhiệm với tổ quốc hôm nay. Phäi không anh?

 

Vô cùng tha thiết

 

Đào Như

Oak park, Illinois, USA

Sept/07/04

Ý kiến bạn đọc
12/02/202002:11:32
Khách
Thưa tác giả bài viết chủ,
Nếu bác sỹ có biết bất cứ tin tức gì về bác sỹ thiếu tá Nguyễn Lân Giác, từng là y sỹ quân y gốc Đại học Quân sự Dalat, từng có thời gian ở tù ct chung với em, sau năm 1982 được phóng thích về, nghe nói bs NLG đi vượt biên và bị bắt vào tù, sau đó tự tử chết, em không tin, nhưng tìm mấy chục năm nay không biết thực hư ra sao, nếu có tin tức gì làm ơn thông tin cho em biết với. (Bác sỹ NLG khi ở tù với em, em có hỏi sao anh không di tản đi nước ngoài, anh NLG có nói với em là anh ấy lớn tuổi rồi, đi nước ngoài phải học lại để lấy bằng bs mất nhiều thời gian, chi bằng ở lại VN hy vọng người ta sẽ trọng dụng mình vì mình là bác sỹ giỏi và có nhiều kinh nghiệm ?!.).
Cảm ơn bác sỹ đã viết rõ những gì xảy ra cho miền Nam ta sau ngày 30/04/75, em có nghe nhiều người kể nhưng không rõ ràng bằng nhân chứng sống, đã trải nghiệm qua sự thật. Đa tạ.
09/02/202014:16:08
Khách
Bài viết hay, một tình cảm sâu động, tha thiết và êm ái!
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.