Hôm nay,  

Chết Tại Buôn Mê Thuộc

24/02/202010:13:00(Xem: 6161)

                                                        

Lời Phi Lộ: Xin ai đó khi đọc tựa đề “Chết Tại Buôn Mê Thuộc” đừng có vội nghĩ ngay rằng tôi đang viết về” Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975” của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Không, đây là câu chuyện hoàn toàn khác hẳn và xảy ra tại Mỹ vào những tháng đẩu năm 1997 đến năm 2000 và câu chuyện được bắt đầu như sau:

 

 

-  Thưa bác sĩ, ông ấy và tôi đến Mỹ lâu rồi từ năm 1984.

Bà vừa nói, vừa dùng ngón tay trỏ chỉ về phía người chồng. Bà ốm, cao người, tuy già lớn nhưng còn vẻ thanh tú. Bà nói giọng Quảng nam. Lúc đó, 1997, theo đúng ngày sanh tháng đẻ của bà trên thẻ thường trú, bà cắn đúng 65 tuổi.

Ngồi bên cạnh bà, người chồng im lặng, nhỏ con, ốm và thắp hơn bà nhiều. Ông ta có đôi mắt ti hí quầng thâm đen, mặt toàn xương, có nhiều vết hằn trên trán, chứng tỏ trong quá khứ ông cũng có những đêm thao thức không ngủ được.

- Thưa bác sĩ, bà ấy với tôi đến Mỹ, năm 1984, đúng vậy…

Nói đến đó ông ta nín thinh, hình như ông ta bị cụt hứng vì cái nhìn của bà vợ. Thấy vậy Trọng đỡ lời cho ông:

- Ông bà đến Mỹ theo diện nào? Có phải diện H.O. không?

- Mần ren mà diện H.O. được. Diện H.O đâu có đến Mỹ sớm dữ vậy. Với lại ông ấy đâu phải là sỹ quan…Bà thở ra nhẹ, bà nói tiếp:

- Ông ấy thượng sĩ già. Chúng tôi đến Mỹ theo diện con lai.

- Khổ lắm bác sĩ, ông thều thào. Tôi là lính của Sư Đòan 2, từ thuở chí tư, cày từ lính, được gắng lon thượng sĩ giữa 73, đến năm 75, Việt cộng vào, rụi om, mất hết. Ông ôm đầu than vãn nhức đầu, mất ngủ, chán chường, đêm ngủ thấy toàn ác mộng.

 

    Cuộc đối thọai sau đó kéo dài hơn 2 tiếng đồng hồ, giữa hai ông bà và Trọng. Sau lần gặp gỡ này, Trọng được biết tên ông là Trần Thống, lúc đó ông 70 tuổi. Hai vợ chồng đều ăn tiền bịnh, và có thẻ khám bịnh số 93, dành cho người bị bịnh, bất lực lao động. Ông là lính của Sư Đoàn 2, ông lập đi, lập lại nhiều lần “tôi là lính của Sư Đòan 2, tôi ăn chịu với Sư Đòan 2, tôi trung thành với cây súng và màu đất đỏ…”. Trọng ngạc nhiên, hầu như không hiểu được cách lý luận của ông ta. Theo ông thuật lại, giữa tháng 3 năm 75, Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân Đòan 2, sau khi nhận được lệnh hãy rút lực lượng theo kế hoạch ít thiệt hại nhất cho Quân Đòan, bảo vệ sinh mạng của chiến sĩ và gia đình họ. Tướng Phú sử dụng Liên Tỉnh Lô 7, nối liền Kontum, Pleiku, Phú bổn, Phú yên để rút lực lượng Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa từ cao nguyên về các tỉnh duyên hải Miền Trung. Cũng như các chiến sĩ khác, ông cũng đùm túm vợ và 5 năm con theo Sư Đoàn rút về vùng duyên-hải. Trong cuộc triệt thoái này, Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa gánh chịu những sự thiệt hại vô cùng to lớn, cũng như gia đình ông gánh chịu những mất mát đau thương: Ông thất lạc đứa con trai 15 tuổi mà ông nghĩ “nó bị vùi dập nơi mô rồi”! Ông miêu tả cái chết của vợ ông: “Bà chết chổng mông ngay dưới chân tôi, nơi cái vực sâu 2 thước! Biết làm sao bây giờ, tôi đành chôn bà ngay tại chỗ đó. Tội nghiệp bà, thế chồng con một mình bà chết thê thảm quá! Tôi dựng một tấm bảng bằng tôn đề tên họ, để sau này mình có dịp may ra trở lại bốc mộ. Mà lâu bấy chừ có dịp mô đâu! Ông mô tả: Cộng quân vô cùng tàn bạo, không một chút tình nghĩa dân tộc. Lúc ấy Liên Tỉnh Lộ 7, một hỏa ngục kéo dài từ Cao nguyên đến các tỉnh duyên hải. Suốt dọc Liện tỉnh lô 7 những suối máu, những con đường nhuộm máu nối tiếp nhau, cộng quân đã quyết tâm tận diệt chẳng những quân của Quân Đoàn 2 và cả hàng trăm ngàn thường dân vô tội. Quân Việt cộng vô sản đã đổ tất cả câm thù lên đầu hàng trăm ngàn người dân vô tội trên đường di tản từ Cao nguyên về đến các tỉnh lị dọc duyên hải miền Trung. Về tới Tuy Hòa, sau hơn 20 năm lính, vốn liếng của ông còn lại là 4 đứa con, cái quần xà lỏn, cái áo thun, và một tương lai đói thấy rõ. Cũng như các chiến sĩ khác, lúc đó ông cũng đi đến kết luận: “cuộc đời binh nghiệp của tôi chấm dứt từ đây!”. Nghe oai và buồn. Thật bi hùng!

 

   Còn Bà, quá khứ của Bà đúng là mẫu mực, người đẹp thời loạn- hồng nhan đa truân. Mà bà đa truân thật. Bà trải qua nhiều cuộc tình, cũng như bà có nhiều đời chồng. Bà thường hay tiếc rẻ, hồi đó tôi dỡ thật, tôi có biết thuốc ngừa thai gì đâu, thành ra với ông nào tôi cũng có con. Chỉ với ông này là tôi không có, khi tôi gặp ông, ông đã già rồi. Tôi lấy ông ấy như đũa có đôi. Bà nói như bà đã chủ động trong mọi lần bà sống chung với mỗi người đàn ông. Bà sanh tại Hội an, lấy chồng về Huế. Ở Huế, ngòai Hòang tộc, Tôn thất, còn có nhiều vọng tộc khác như: Nguyển Khoa, Nguyễn Hữu, Trần Thanh…Hình như người chồng Thừa Thiên của bà là một thư sinh xuất thân từ vọng tộc Huế. Bà có hai con. Bà đẹp và sang. Chồng bà là sĩ quan Trung úy. Cấp bậc Trung úy của ông chồng Bà, theo Bà kể là Trung úy bất đắc dĩ, chứ ông ấy tốt nghiệp Đại học Sư phạm hệ 3 năm. Biến cố Mậu Thân, 1968, tai ương cho Huế và cũng là tai ương giáng xuống gia đình Bà.  Chồng Bà bị Cộng sản giết chết và vùi thây trong mồ chôn tập thể. Nhà Bà bị máy bay Mỹ bắn rockets cháy, sụp đổ nát tan, trong cái quyết tâm của họ dành lại thành phố Huế trong tay Cộng sản. May mà hai đứa con Bà và Bà còn sống sót. Cơ cực quá rồi. Thôi thì đành phải “thoái thì về mẹ vậy”. Bà thu xếp, đầu 69, Bà dẫn 2 con về Hội an ở với cha mẹ. Lúc đó cha mẹ Bà cũng đã già, ảnh hưởng chiến tranh gia tài gần như khánh kiệt. Sở dĩ ông cụ bà cụ còn đựơc giây phút nhàn nhã, là nhờ mấy thằng con trai có hiếu, đi lính đi tráng cũng dành dụm gửi tiền về bù đấp cho ông bà. Những năm 67, 68, 69, chánh phủ Mỹ đổ quân ào ạt vào Việt Nam. Số lượng quân viễn chinh Mỹ tại miền Nam Việt Nam lên đến con số kỷ lục hơn nửa triệu người.  Cách Hội an về phía Nam, không đầy  90 cây số, căn cứ Chu lai của Mỹ được nới rộng. Làm ăn với lính Mỹ có màu làm giàu nhanh và đỡ mệt nhọc. Bà nói với bác sỹ Trọng:

   - Tôi gửi các cháu cho ông bà ngoại chăm sóc cho đi học. Tội nghiệp các cháu giống cha, chăm chỉ học hành, sau này thành thân hết. Tôi lặn lội vào Chu Lai. Đâu có ham vui gì nữa, lúc đó tôi đã hơn nửa đời người! Tôi chỉ cần tiền nuôi các cháu và giúp đỡ cha mẹ. Tội nghiệp hai thằng em tôi, đi lính, đi tráng, lằn tên mủi đạn, khổ sở mà phải dành dụm gửi tiền về nuôi cha mẹ. Thấy vậy tôi không đành. Tôi là chị cả cũng là con gái một…Cuộc sống đưa đẩy tôi đến ngày tôi gặp Bob, 1970, tại một Night Box trong căn cứ Chu lai. Ông ta không phải quân đội, ông ta mặc đồ dân sự. Ông có xe, có tài xế riêng và hình như cũng có bác sĩ riêng nữa. Thật sự tôi không biết ông ta làm gì? Ông ta lúc nào cũng có gương mặt đâm chiêu, suy nghĩ. Có lẽ ông nghĩ về gia đình ông ta tại Mỹ, vợ ông, con ông và cha mẹ ông. Cũng như ông, tôi nghĩ về các con tôi, về Vinh, người chồng xấu số của tôi bị giết chết trong tết Mậu Thân, về cha mẹ tôi…Vì những điểm giống nhau đó, lúc đầu tôi chỉ cần tiền, nhưng sau hiểu nhau, chúng tôi đầu ấp tay gối với nhau thật sự. Ông ta cho tôi tiền nhiều lắm. Có tháng ông cho hơn cả 5, 6 trăm dollars. Ông thường nói đùa, ông cho tôi tiền còn nhiều hơn ông Tướng Kỳ cho bà Mai mỗi tháng. Cuộc tình lớn của bà và Bob được kết thúc bằng hòa ước Paris, ký kết giữa Lê Đức Thọ và Kissinger vào 23 tháng Giêng, 1973. Sau khi rút về nước khoảng tháng 3/73, Bob để lại cho Bà đứa con trai 9 tháng. Vào tháng 5/1973 bà tự biết thời làm ăn với Mỹ đã hết. Một lần nữa bà quyết định ‘về với mẹ’. Bà đem tất cả tiền bạc và tài sản dành dụm được và bế đứa con ‘lai’ về Hội an. Bà gặp phải sự phản đối dữ dội của hai đứa con bà. Ông cụ bà cụ vẫn giữ thái độ yên lặng. Phần thì thương và hiểu các cháu ngoại, phần thì cũng xót cho con gái của mình. Mà đâu có phải tại cháu hay tại con, như cụ bà thường than vãn: Tất cả đều trên trời rơi xuống, như bom đạn chiến tranh, như hỏa tiển, tai bay họa gửi…

   Thời gian là ông thầy thuốc tài ba nhất. Dần dần thời gian xoa dịu các vết thương tâm. Bà đem tiền về Hội an, bà xây dựng cơ sở làm ăn. Bà lập một quán cà phê. Mặc dấu ở tuổi 41, 42 bà vẫn còn nhan sắc, nhất là một người đàn bà từng trải như Bà, quán cà phe của bà‘ăn nên làm ra’. ‘Gần miền’có anh chàng chưa có vợ, trẻ hơn bà đôi ba tuổi gì đó, trước 73 làm nghề thông dich cho Mỹ. Mỹ về nước, thất nghiệp, xin đến giúp Bà một tay. Bà nói:

-  Xin đến làm không lương đó Bác sĩ. Và một năm sau, trời ơi! Tôi đâu có ngờ ở tuổi 42 mà tôi còn có thể có thai với “hén”. Thôi thì cũng đành thương nhau ‘đậu gạo nấu cơm’ mà nuôi con Đến 75 “mấy ổng” vào, quán xá vẫn sinh hoạt bình thường. Mấy tuần lễ đầu tháng Năm, mấy ổng hạch sách tí đỉnh. Nhưng vấn đề là mình phải ‘biết điều’ với họ. Cũng phải thôi. Mình là Ngụy mà có con lai nữa. Một cổ hai tròng. Nhiều anh cách mạng bảo nhỏ với tôi là đừng lo, đừng đóng cửa quán, có gì các anh ấy che chở cho. Nhiều anh tốt bụng quá. Nhưng có một điều là thằng con lai của tôi, thằng Lùi, nó lớn như một thực tế đáng sợ: Da trắng, tóc vàng, mắt xanh, trông giống cha nó, thương đứt ruột.

- Tại sao bà đặt tên con bà là ‘Lùi’? Bà khiêm tốn quá vậy?

-  Bác sĩ dạy quá lời. Sự thật không phải khiêm tốn gì đâu. Tôi đặt tên cháu là Nguyễn Văn Louis để nhớ lại sự tích của cha nó tên là Bob. Khi sanh, nó đâu có giấy khai sanh, mải đến năm 76, sau khi Cách mạng vào, họ đòi hỏi khai sanh để lập hộ khẩu, mới đi làm khai sanh cho nó ở cái xã gần nhà. Ông cán bộ đội nón cối nhìn châm bẩm vào thằng con tôi, rồi ông ta nhìn vào giấy tờ tôi viết đàng hoàng: Nguyễn văn Louis, sanh tại Chu Lai ngày 12 /06/1972. Ông ta hất hàm hỏi tôi bằng giọng Bắc kỳ, ông nói đớt:

- Tiếng Việt đâu có tiếng Nu-I.?

Ông ta tự ý sữa thành Lui, và cũng chính ông ta thêm cho nó cái dấu huyền cho nó hợp thời và dễ nghe hơn.

- Bà không phản đối gì sao?

- Thưa Bác sĩ, Louis, Nu-I, Lui, Lùi có khác gì đâu. Cái giống gì cũng được. Vào thời buổi đó, hơi đâu mà kỳ kèo với “nón cối”.

- Sao lúc đó Bà không khai cháu Louis là con nuôi, bà lượm được, có ai hay biết gì đâu?

- Đâu có đành như vậy, thưa bác sĩ! Bà lấy giọng cao hơn:

- Con của tôi! Tôi phải khai là con của tôi. Tôi mang nặng. Tôi đẻ đau. Trời cho nó cho tôi. Tôi phải đùm bộc nó chớ. Có chết tôi cũng chịu, đâu có lẽ nào mà mình chối bỏ giọt máu của mình.

Thấy bà có vẻ giận, Trọng vội vàng xin lỗi bà. Bà liền đỡ lời:

- Tôi biết bác sĩ không cố ý nói như thế!

 

     Nhưng…thưa bác sĩ, sống là phải nhìn thấy trước. Năm 1976 vào khỏang tháng 7, bầt ngờ tôi nhận được thư của anh Hoành, anh ruột của anh Vinh. Anh chị Hoành cho tôi biết anh chị đã trở về Huế, và anh chị đang tu bổ lại căn nhà của cha mẹ chồng tôi ở đường Lý Thường Kiệt. Anh chị không có con. Anh chị có ý gặp tôi và hai cháu Hoa và Thăng, con của tôi và anh Vinh. Theo tôi biết, anh Hòanh là cán bộ lớn từ Hà Nội về. Anh ấy là anh ruột của anh Vinh, tập kết ra Bắc 1954. Anh ấy có du học Liên Xô năm hay sáu năm. Anh đậu Tiến sĩ tại Liên Xô. Nhân cơ hội này tôi nghĩ đem hai cháu gửi cho Anh Chị nuôi, cho tụi nó dễ bề học hành và tiến thân sau này. Các con tôi ở với anh chị như ẩn thân dưới cây dù che cho cái cán. Cả 3 mẹ con tôi đùm túm nhau về thăm Huế. Gặp anh Chị, anh chị mừng. Anh Hoành ôm hai cháu Hoa và Thăng vào lòng. Anh không dám khóc mà mắt cứ rưng rưng. Anh không hề nhắc đến anh Vinh, cái chết của anh Vinh, cũng như cái chết hao mòn của cha mẹ. Anh ấy nói nghe mà chua xót:

- Cái gì của quá khứ có thể đúng cũng có thể sai, nhưng nó thuộc về quá khứ. Ta nên coi nó                                                                                                                                                                                                vĩnh viễn thuộc về quá khứ. Chúng ta hãy lo xây đắp những cái gì trước mắt chúng ta để có một tương lai hòa hợp và tươi sáng hơn.  Vợ chồng tôi thấy cần giúp đỡ thím để chăm nom hai cháu Hoa và Thăng. Xin thím cho hai cháu về ở hẳn với hai vợ chồng tôi. Bây giờ là đúng lúc nhất để tôi lo sắp xếp cho các cháu vào trừơng cấp hai và cấp 3 ở Huế, Trường Quốc Học cũ đó. Anh ấy vuốt tóc hai con tôi và nói tiếp:

- Trường mà bác và ba của các con học chung với nhau từ thuở nhỏ.

Thưa bác sĩ, nghe đến đây tôi bùi ngùi nhớ lại anh Vinh. Cuộc chiến tranh của đất nước ta quá lâu, xé toang gia đình ra từng mảnh. Bên này cũng như bên kia, ai cũng không dám nhìn thẳng vào quá khứ đau thương, chẳng khác nào soi mặt mình trong vũng máu của chính mình, của gia đình, của anh em, của đồng bào đất nước.  Anh Hoành dẫn hai cháu Vinh và Thăng đi thăm từng phòng trong nhà và anh ấy nói với hai cháu:  Bác và hai cháu, đang trở lại ngôi nhà của tổ tiên, của ông nội, bà nội, của cha con… Nơi đây, bà nội đã hạ sinh Bác và Cha con. Và cũng là nơi, cách đây mười mấy năm, mẹ của các con đã hạ sinh các con. Các con hãy ở lại đây, dưới mái nhà này, với hai Bác. Lời anh ấy như một khẳng định. Tôi nấn ná ở lại với anh chị và hai cháu thêm vài ngày. Tôi cũng băn khoăn khi thấy anh chị cũng không lấy gì sung túc. Chị ấy cũng con nhà quyền quý xưa của Hà nội, cho nên đồng thanh tương ứng, anh chị gặp nhau, yêu nhau. Anh chị kết hôn trong chiến tranh.  Anh chị cũng có con trai lên tám, ở phố Khâm Thiên, Hà nội, đi sơ tán không kịp, bị máy bay B52 của Mỹ dội bom chết ngày Giáng sinh 1972. Vết thương nhức nhối đó anh chị chưa hề nói cho ai nghe, kể từ ngày trở về Huế. Trong lúc hai chị em tâm sự với nhau chị ấy mới nói: “đó là vết thương tâm lúc nào cũng xuất huyết. Nghĩ về cái chết của chú Vinh, cái chết của con chúng tôi, nhà tôi nhiều đêm không ngủ được”. Khi còn chừng một ngày nữa tôi phải về Hội an, tôi mới thưa với anh chị Hoành: “Anh chị nhận hai cháu Hoa và Thăng nuôi như con vĩnh viễn, em rất mừng.  Nhưng gia đình anh chị thanh bạch, không lấy gì sung túc lắm, Em xin gửi anh chị 5 cây vàng để tiếp tay anh chị chăm sóc hai cháu về lâu về dài. Sau chuyến này, em nghĩ lâu lắm mới gặp lại hai con. Và tôi khóc. Lúc ấy anh Hòanh bước đến ôm lấy vai tôi, anh ấy nói:

- Vâng 5 cây vàng là một vốn lớn đối với đồng lương của chúng tôi. Nhưng tôi nghĩ chế độ của hai vợ chồng tôi hằng tháng, đủ để cho vợ chồng tôi đùm bộc hai cháu, giữ lấy gia phong. Thím hãy đem 5 cây vàng này về Hội an mà đề phòng những bất trắc có thể xảy ra cho thím. Thím biết gia đình thím không hội đủ điều kiện ở lại thị xã Hội an làm ăn. Ngày mai tôi phải đi sớm vì có công tác đột xuất, hai cháu và vợ tôi, Viết Hương, đưa thím ra bến xe. Nếu sau này có bất trắc gì xảy đến, xin thím cho chúng tôi hay để kịp thời giúp đỡ thím. Nói xong anh ấy đi vào phòng trong. Mười giờ sáng hôm sau Chị Viết Hương và hai con tôi đưa tôi ra bến xe đò về Hội an. Không biết nói gì trong lúc chia tay với hai con, tôi nhét vội trong túi áo thằng Hoa 5 cây vàng và bảo nó gìn giữ lấy để mà hộ thân cho nó cũng như cho em nó, coi như gia tài chia cho hai đứa nó. Tôi bảo: Con hãy đem gửi cho bác gái, đừng cho bác trai con hay. Tôi quay lại nhìn chị Viết Hương thì chị đang nhìn chỗ khác. Mãi đến lúc xe lăn bánh, chị mới quay lại nhìn mẹ con tôi. Hình ảnh của chị là niềm tin yêu sắt đá đối với tôi...Nói đến đây, bà đứng dậy, đến ôm vai chồng ngồi bên cạnh cửa sổ, môi bà nở nụ cười hòa lẫn với nước mắt. Nhắc lại chuyện xưa, bà xúc động. Từ lầu 7 nhìn xuống, đừơng phố Broadway đang ấp ủ nắng hoàng hôn và bóng mát của khu phố.

Trọng ôn tồn bảo:

- Tuy có tuổi tác, nhưng lúc nào ông bà cũng san sẻ và gần gũi nhau. Điều đó làm cho tôi mừng.

 Ông Thông, chồng bà, sôi nổi nói:

- Mụ ấy vẫn vậy, từ trước đến bấy chừ. Thương chồng, thương con. Không nhờ mụ, cha con tôi chết đói từ lâu rồi, và không làm sao mà đến được Mỹ.

Lúc này Bà quay lại Trọng :

- Con chúng tôi lớn rồi bác sĩ. Tụi nó làm ăn tại North Carolina. Nghe cộng đồng Việt Nam ở Chicago  đông, ông nhà tôi có nhiều bạn ở đây và lại nghe đồn bác sĩ về làm việc ở đây, cho nên hai vợ chồng tôi mới dời về đây cho ông ấy hôm sớm với bạn bè, và cũng để bác sĩ điều trị giùm cho hai vợ chồng tôi. Bà than vãn:

- Sao mà ai ai cũng buồn, đâu đâu cũng buồn. Nhức đầu không sao ngủ được. Ai cũng cô đơn, không gửi vào đâu được.  Đêm nào ông nhà tôi ngủ cũng thấy chiến tranh, thấy thịt rơi máu đổ, thấy người giết người, thấy vợ ông chết thê thảm quá. Tội nghiệp ông ấy lúc nào cũng nhớ thương bà. Cuộc đời tôi còn nhiều gian truân lắm. Xin bác sĩ cái hẹn, lần tới để chúng tôi giải bày cặn kẻ hơn…

  Sau đó ông bà thường lui tới găp Trọng, để tư vấn tâm thần, nhất là ông Thống, để sinh hoạt với nhóm điều trị: “Câu Lạc Bộ 309.81”. (1)

 

  Thấm thóat, mới đó mà sự liên hệ giữa ông bà với Trọng gần đúng 3 năm.  Một buổi sáng gần cuối tháng Tư, năm 2000, mùa xuân đang trên đường trở lại Chicago. Những mảng tuyết trắng xóa đang cố bám lấy nóc phố như những cố gắng cuối cùng của mùa Đông đang tàn lụi. Những người Da Đỏ trong những chiếc áo chòang dày cộm làm bằng da thú, mặt đỏ gừ, nồng men rượu, cúi đầu đi lang thang trong khắp phố Uptown, thuộc vùng phụ cận phía Bắc thành phố Chicago như những con gấu mộng du, ngái ngủ. Họ có vẻ lạc lỏng trên vùng đất quê hương mà chính tổ tiên họ đã dày công xây dựng qua mấy nghìn năm lịch sử.  Cô thư ký phòng ngoài, điện thọai vào cho hay có thân chủ muốn gặp. Trọng vừa đứng dậy để ra đón, thì bà Sương, vợ ông Thống đã đứng trước mặt. Bà Nói:

- Xin lỗi bác sĩ, đến sớm, mà không có hẹn trước.

- Thưa bà, không hề gì vì tôi cũng không có hẹn với ai trong giờ này.  Xin bà cứ tự nhiên.  Trọng vừa nói, vừa theo dõi những cử chỉ và những thay đổi trên nét mặt của bà. 

- Thưa bà, thành phố Chicago, trong mấy tuần lễ qua, bị chôn vùi dưới tuyết lạnh. Tuần này trời ấm lại. Xem chừng như mùa Xuân đang trên đường trở về. Ở Mỹ thời tiết và 4 mùa, thay đổi nhanh thật. 

- Thưa bác sĩ, trong mấy tuần qua, vợ chồng tôi có ý muôn đến gặp bác sĩ, nhưng thời tiết tệ hại quá. Thấy hôm nay trời ấm, tôi vội đến bác sĩ ngay, vì tôi có vài điều cần thưa với bác sĩ hay, là ông nhà tôi nhập viện cách đây năm hôm.  Bác sĩ Karnov, tại bịnh viện cho hay là ông nhà tôi có khả năng bị ung thư gan, và ông đang cho làm những xét nghiệm cần thiết. Nói đến đó, bà khóc.

- Thưa bà, bà cần tôi giúp đỡ cho ông ở nhà những gì? Xin bà cứ nói, tôi sẽ cố gắng tối đa trong khả năng của tôi.

- Thưa bác sĩ ở tuổi ngòai 70, ông nhà tôi còn mắc bịnh ung thư thật oan nghiệt. Tội cho ông!

- Thưa bà, ung thư là món nợ chúng ta phải trả ở tuổi già. Càng già tỉ lệ mắc bịnh ung thư càng cao. Tuy nhiên nếu quả ông mắc bịnh ung thư thật, thì hẳn nhiên đó là một điều chẳng lành cho bất cứ ai. Tôi hy vọng bịnh viện sẽ tìm ra phương án, tiến bộ nhất, hiện đại nhất để chữa chạy cho ông.

- Cám ơn bác sĩ. Bác sĩ Karnov cũng nói rồi: Ung thư gan không lâu lắm đâu. Bà khóc. Trọng, tìm cách chuyển hướng câu chuyện:

- Tính tới hôm nay ông bà ở đời với nhau được bao nhiêu năm rồi?

Bà Sương, đôi mắt xa vời, vừa nhìn ra cửa sổ, bà vừa nói:

- Chúng tôi làm Tờ Sống Chung tại Vùng Kinh Tế Mới Đà Nẳng 2, năm 1982. Mẹ con tôi bị chính quyền Cộng sản chỉ định đi Vùng Kinh Tế Mới Đà Nẳng 2, năm 1981, sau khi họ hay biết người chồng sau cùng của tôi vượt biển bằng tàu, đụng đá ngầm, tàu đấm và chết tại ngoài khơi Mũi Din Phanrang. Thật là bi đát, bi đát hơn lúc Mậu Thân ở Huế. Mẹ goá con côi, tay bồng tay bế, bị áp đảo đi vùng kinh tế mới Đà nẵng 2, vào mùa hè tháng tư 1981. Mùa hè ở đây nóng và khô cằn, thật nghiệt ngã. Vùng KTMĐN2 nằm phía Tây Đà nẳng, phía Tây Bắc Hội an, nằm sát chân núi Trường Sơn, gần đường mòn Hồ Chí Minh. Dân chúng được đưa về đây, để phá rừng trồng lúa và khoai mì. Nhà ở làm sẵn. Nhà tranh vách đất. Không có điện. Nước chỉ có con suối nhỏ. Chúng tôi san sẻ nước của con suối nhỏ này với trại tù lao cải của các sĩ quan Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, họ ở về phía tây chừng 2 cây số cách chúng tôi, sâu hút trong rừng Trường sơn. Sau này chúng tôi biết đó là trại Khe Hoa, còn gọi là B16. Đến ĐN2, vô tình Cộng sản sắp tôi ở cái chòi chung vách với ông Thống. Hộ khẩu của ông có 3 người làm ăn cực lực, sống kham khổ, khoai sắn không có đủ mà ăn, nước bùn không có đủ để mà uống. Ông Thống là người ít nói. Ông giúp đỡ mẹ con tôi nhiều hơn là nói. Ông cho hay, 5 cha con đến Đà Nẵng2 hồi năm 80. Sau 6 tháng đầu hết phụ cấp lương thực, đói quá, 2 thằng con trai lớn của ông bỏ trốn về Buôn Mê Thuộc. Đứa đạp xích lô, đứa sửa xe đạp đầu đường gốc phố mà sống. Làm ăn gần gũi nhau, thấy ông Thống là người chân chất tôi mới để bụng thương ông. Chúng tôi làm tờ sống chung cuối năm 82. Giữa năm 83 có tin cho hay là gia đình có con lai được đi Mỹ. Đó là bước đầu để khai thông quan hệ ngoại giao giữa hai nước Việt Nam và Mỹ. Tội nghiệp ông Thống. Ông vô cùng mừng rỡ. Chúng tôi kết hợp con cái đi Mỹ. Thế là hai vợ chồng và 4 đứa con chúng tôi đến North Carolina giữa năm 1984. Như vậy, tính đến nay chúng tôi sống chung với nhau gần 18 năm.

    Ngồi nghe bà điểm lại quá khứ của bà sống với ông Thống, và nhớ lại cuộc đời của bà, những lúc bà sống với Vinh, với Bob, với người chồng cuối cùng của bà, Trọng thấy những điều u-uẩn bà mang nặng bấy lâu nay, khiến bà chuốc lấy triệu chứng trầm cảm nặng, khiến tâm linh bà mang nhiều sắc thái, lúc siêu thoát, lúc trần gian.  Nhưng ở dưới đáy tận cùng của tâm linh bà, đó là tấm lòng chân chất và trung hậu. Tình yêu của bà với mỗi người đàn ông bà đã sống chung, bắt đầu mỗi người một khác, nhưng cuối cùng bà đã yêu thương tất cả những người chung chăn gối với bà với tất cả tấm lòng chân thật và trung hậu. 

   Bà nhìn đồng hồ, bà đứng dậy xin kiếu Trọng ra về. Bà cám ơn thì giờ quí báu mà Trọng đã dành cho Bà. Trọng đáp lại lời cám ơn của bà, và tỏ lời:

- Rất tiếc không giúp được gì cho ông ở nhà trong lúc này, tuy nhiên tôi muốn đến thăm ông tại bịnh viện.

    Sau khi cho Trọng địa chỉ bịnh viện, số điện thoại, só phòng bà Sương lầm lũi ra về.

 

Trọng đến thăm ông Thống vào lúc 3 giờ chiều. Ông nằm phẳng phiu trên giường bệnh. Con người của ông vốn đã gầy trơ xương, Trọng cứ nghĩ ông giờ này kiệt sức. Chợt thấy Trọng đến, ông liền đứng dậy bắt tay Trọng và ngỏ lời cám ơn Trọng đã bỏ thì giờ quí báu đến thăm ông. Trọng thật sự xúc động trước những lời lẽ chân thành của ông. Nhìn cái bụng cổ chướng và màu da đất sét của ông, Trọng biết ngay là ông không còn nhiều thì giờ nữa. Ngày tháng và thời khắc của ông đã bắt đầu điểm. Trọng đáp lễ với ông bằng cách nắm bàn tay của ông trong lòng hai bàn tay của Trọng. Ông vốn dĩ là người ít nói, hôm nay ông lại nói rất chậm, đắn đo suy nghĩ. Những điều ông sắp nói cho Trọng sau đây là những điều ông suy nghĩ trong nhiều năm tháng. Lần đầu tiên Trọng nghe ông gọi vợ bằng “bà nhà tôi”, thường thì ông chỉ gọi‘mụ ấy’ mặc dù lúc nào ông cũng hết sức kính trọng yêu thương bà.

Ông Thống nói:

- Thưa bác sĩ, tôi nghe bà nhà tôi nói mấy hôm rầy bác sĩ sẽ đến thăm tôi, vì thế tôi có ý đợi bác sĩ đến, để thưa bác sĩ vài điều.

Nói đến đây ông ngừng một chập, thật lâu, vừa suy nghĩ vừa nhìn vào mắt Trọng, ông nói tiếp:

- Bác sĩ Karnov cho tôi hay là tôi bị ung thư gan. Có lẽ không do thuốc độc khai hoang Dioxin, màu vàng cam của Mỹ. Ông đã kiểm nhận qua máu của tôi, không có yếu tố hóa chất nào chứng minh điều đó. Lặn lội trên khắp chiến trường trong suốt hơn 20 năm, giờ ôm bụng chịu chết vì ung thư gan.  May mà không phải thuốc khai hoang, Dioxin, màu vàng cam của Mỹ. Nếu rủi mà như vậy thì làm sao lịch sử có thể soi rọi bóng tối sâu thẩm nầy!  Bác sĩ Karnov cũng ở trong Lục Quân của Mỹ, đã từng tham chiến tại Việt Nam, cho nên ông rất thông cảm với tôi. Tôi nài nỉ ông ấy nhiều lần cho tôi biết tôi còn sống được bao lâu nữa? Cuối cùng ông cũng ước đoán không quá 18 tháng. Ông cũng khuyên tôi nên thu dọn càng sớm càng tốt. Tôi cũng làm việc với tất cả các con của chúng tôi và ‘bà nhà tôi’. Tất cả đều đồng ý với quyết định của tôi là tôi sẽ về chết chôn tại Buôn-mê-thuột. Ở quê nhà tôi còn hai thằng con trai lớn. Tất cả đều thành gia thất. Thằng cả đang ở tại nhà của tôi tại Buôn-mê-thuột, nhà của tôi trước 75. Buôn-mê-thuột là quê hương của tôi, tôi sanh ra tại đó, lớn lên tại đó. Cuộc đời của tôi chôn chặt dưới màu đất đỏ ấy. Cộng sản có thể chiếm đoạt quê hương tôi. Cộng sản có thể tước đoạt quyền bảo vệ tổ quốc của tôi. Nhưng Cộng sản không thể nào thủ tiêu được lòng yêu nước của tôi. Tôi hy vọng bác sĩ đồng ý với vợ con tôi, cho tôi trở về non sông đất nước, trả tôi lại cho tổ quốc...Nói đến đây ông dừng lại một hồi lâu, tuy thế Trọng cũng không dám cướp lời ông. Ông nói tiếp:

- Thưa bác sĩ tôi còn một ý nguyện nữa: tôi phải về để bốc mộ vợ tôi. Bà nằm ở đó đã 25 năm rồi. Mưa gió tội nghiệp bà. Tôi sẽ đem bà về nằm gần nhà, ở Buôn-mê-thuột. Sau này con tôi sẽ đặt tôi nằm bên cạnh bà.

- Sao ông lại hỏi tôi như vậy? Trọng hỏi. Đó là quyết định to lớn quan hệ tới vợ con ông, gia đình và tổ quốc. Tuy nhiên tôi cám ơn ông đã cho tôi vinh dự vô cùng to lớn ấy là được tham dự chuyện nhà của ông. Còn chuyện chúng ta quay đầu về tổ quốc là sự lựa chọn vô cùng chính đáng.

   Ông Thống quay lại bảo vợ lấy cái phong bì đè dưới gối, trong đó có tờ di chúc ông viết cho vợ con ông. Bà Sương trong suốt hơn một tiếng đồng hồ ngồi yên nghe chồng bà nói chuyện với Trọng, bà liền đứng dậy đến lấy phong bì đưa cho Trọng. Vì xúc động mắt của Trọng nhoè cả chữ. Trọng đọc thóang qua và chỉ nhớ vài giòng cưối cùng ông viết cho các con riêng của ông: “Các con tiếp Ba phụng dưỡng mẹ Sương của các con. Tuy bà không phải là mẹ đẻ của hai con, nhưng điều chắc chắn là nếu không có bà, thì cha con ta không có được như hôm nay. Có thế, Ba mới yên lòng về với tổ quốc, với mẹ đẻ của các con, bà đang chờ đợi Ba”…

 

     Từ giả ông Thống, ra khỏi bịnh viện lúc 5 giờ chiều, trời Chicago lạnh, Trọng dừng lại, ngước cổ kéo áo chòang cao hơn, Trọng chợt thấy hàng chữ điện tử trên nóc ngân hàng chỉ đúng hôm nay ngày 30 tháng Tư. Tim anh se lại. Anh cuối xuống, mở cửa bước vào trong xe. Ngồi vào ôm tay lái. Bóng tối vừa phủ xuống thành phố Chicago. Trọng lái xe hướng về nhà nhưng anh có cảm tưởng anh đang đi về một nơi vô định.../.

 

ĐÀO NHƯ

Oak park, Illinois-USA

[email protected]

tháng Giêng-2002

 

Chú Thích

(1)-“309.81” Nhóm Ước Số Quốc Tế chi Hội Chứng Hậu Chiến -Post Traumatic Disorder Syndromes -PTSD). “Câu Lạc Bộ 309.81” là những nhóm điều trị tâm thần tập thể gồm những người Việt Nam và người Châu Á Thái Bình Dương do Bác sĩ Đào Trọng Thể (tác giả bài viết trên) thiết lập từ năm 1987 tại Asian Human Services in Chicago.

 

 

Ý kiến bạn đọc
27/02/202006:44:19
Khách
Banmêthuột là tên gọi trước đây của Việt Nam Cộng Hoà . Không ai gọi buôn mê thuột như cộng sãn gọi bây giờ nhé .
24/02/202019:16:01
Khách
Sư Ðoàn rút lui từ Cao Nguyên năm 1975 là sư đoàn 22 BB. Sư đoàn 2 BB là sư đoàn không ở cao nguyên đóng tại Quảng Ngãi Quảng Tín.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.