Hôm nay,  

Cái Ôm

10/04/202015:59:00(Xem: 5453)


1


Mẹ ngồi xem lại những tấm hình, những đoạn phim quay lúc đi chơi. Mẹ cười thích thú.


“Chỗ này vui quá! Đông người, nghẹt thở luôn, nhưng mà Mẹ thích lắm! Mai mốt cho Mẹ đi lại chỗ này đi con!”


“Dạ.”


An cười, nhưng chợt khựng lại với ý nghĩ không biết bao giờ mới có thể cùng Mẹ đến những chỗ đông vui như vậy. Hơn hai tuần lễ thực hiện điều “ở yên trong nhà” mà thấy lâu như cả năm. Mặc dù An đã kéo hết công việc về làm tại nhà, không phải đi đến sở, An thấy vẫn còn nhiều thì giờ trống. Chính là những lúc trước đây dành cho việc chạy bộ tập thể dục, là những lúc đẩy xe cho Mẹ đi dạo để hít thở chút khí trời trong lành, là những buổi họp mặt bạn bè, đàn ca hát xướng cho vui… Nhiều lắm! Khi bình thường không ai để ý những điều đó, đến khi phải sống trong một bầu không khí mới, sẽ thấy có sự khác biệt rõ ràng.


An có giải thích cho Mẹ, nhưng chỉ đơn giản, ngắn gọn thôi, không muốn khiến Mẹ lo lắng. Rằng lúc này mình không nên đi ra đường nhiều, nhất là người có tuổi như Mẹ, để tránh bị mắc bệnh. Rằng cái con virus này mới toanh, chưa có thuốc chữa, cũng chưa có thuốc ngừa. Rằng con virus này có thể truyền bệnh từ người sang người, do những giọt li ti bắn ra khi người ta ho hay hắt hơi. Rằng ngay cả thở vào nhau cũng có thể truyền những con virus này. Thế thôi! Nói như vậy chỉ để Mẹ yên tâm mà ở trong nhà, không bị buồn.


Mẹ nói Mẹ cũng có đầy kinh nghiệm về những con vật tí hon dễ sợ như thế. Mẹ nói sợ nhất là con vi trùng thương hàn. Mẹ nhắc về ngày xưa, khi Mẹ ở tuổi mới lớn, mắc bệnh thương hàn, nặng đến nỗi tóc tai rụng hết, mình mẩy trơ xương. Mẹ nhắc về những con virus làm cháu của Mẹ bị bệnh sốt xuất huyết, bị sốt bại liệt… Mẹ sợ đến nỗi ngày đêm cầu Trời khấn Phật cứu giùm các cháu.


Từ ngày Mẹ yếu đến nỗi di chuyển trong nhà cần có người theo một bên, phải dùng đến cái walker, Mẹ ít khi phải nghe những chuyện bệnh tật. Đó là vì không ai muốn Mẹ phải nghe. Tránh được thì tránh, không thì phải thật đơn giản, càng ít càng tốt.


“An này! Hai tuần nay không thấy anh chị đưa các cháu đến chơi.”


“Dạ, Mẹ, mình đang phải theo lệnh ở yên trong nhà.”


Mẹ thở dài:


“Ừ há! Mẹ quên. Vậy bao giờ Mẹ mới gặp tụi nhỏ?”


“Chắc cũng không lâu đâu Mẹ! Mình ráng chờ.”


An biết cho đến khi nào có vaccine để ngừa bệnh thì lúc đó mới thật sự yên tâm. Trong nhiều ngày nữa chưa chắc Mẹ sẽ được gặp các cháu. Mọi người dùng điện thoại để liên lạc. May mà có phương tiện này!


“Mẹ ơi, lúc này mình ít ra ngoài, Mẹ gọi điện thoại thăm mấy cô bác đi! Chắc họ cũng thích trò chuyện lắm đó!”


“Ừ nhỉ! Chắc họ cũng buồn vì không được đi đâu cả.”


Thế là Mẹ bắt điện thoại gọi cho mấy bà bạn. Những câu chuyện vui khiến Mẹ cười khanh khách. Nhưng cũng có lúc nét mặt của Mẹ trầm tư, Mẹ ngồi lặng yên không nói. Đến tối, khi thấy An hết việc rồi, Mẹ kể:


“Bác Hai, bác ấy nói là thấy buồn lắm, vì anh của bác ấy vào bệnh viện, mà người nhà không ai được vào theo, không được thăm, chỉ có thể nói chuyện qua điện thoại. Anh của bác ấy sắp mất rồi, mà bác ấy không làm gì được. Rồi thì như nhiều người khác, ông anh sẽ chết cô đơn trong bệnh viện.”


An dọn cơm ra chiếc bàn thấp cho Mẹ. Mẹ vẫn ngồi trên giường, xoay người ra để ăn cơm. An chạy ra khá xa, vừa dọn dẹp vừa nói chuyện với Mẹ. Mẹ hỏi:


“Sao con không ăn cơm luôn?”


“Mẹ ăn trước đi, con làm chút chuyện rồi ăn.”


Mẹ có vẻ không vui. Thường ngày hai mẹ con cùng ăn cơm với nhau, hôm nay Mẹ lại phải ăn một mình. Thấy Mẹ giằm giằm cái muỗng trong chén, An bật cười, giải thích:


“Mẹ à, từ nay con phải đứng xa Mẹ một chút, vì con là người chăm sóc Mẹ, mà con lại còn phải ra đường đi mua thức ăn và các thứ cần thiết. Con có thể đang mang mầm bệnh mà không hay, lỡ con lây cho Mẹ thì khổ. Nhưng ngoài con ra thì không ai có thể thay con ở bên cạnh Mẹ. Vậy Mẹ chịu khó…”


“Mẹ hiểu rồi! Con nói phải. Mẹ hiểu mà!”


Ban đêm, Mẹ ngủ ngon, nhưng An lại trằn trọc. Những lúc ngủ không được, An thường chạy vào giường Mẹ, chui tọt vào chăn, ôm lấy Mẹ và ngủ được ngay. Nay thì không. Hai mẹ con hứa với nhau “giữ khoảng cách an toàn” như mọi người. Được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Và giữ như vậy sẽ giúp Mẹ “làm quen” với kiểu cách mới này, sẽ không trách móc khi mấy đứa cháu đến nhà mà không ôm hôn bà như trước.


 


2


Buổi sáng, Mẹ ở trong phòng tắm rất lâu. An rón rén đi vào, thấy Mẹ đang rửa tay. Mẹ nói:


“Bạn của Mẹ bảo phải rửa tay cho đúng cách, ít nhất 20 giây con ạ!”


An phì cười:


“Dạ phải. Con cũng định nói với Mẹ như vậy.”


“Ừ, có như vậy mình mới không bị bệnh. Mẹ sợ bị bệnh lắm!”


Mẹ tự đi ra với cái walker, không cho An giúp. Mẹ nói:


“Con cứ ở cách xa Mẹ sáu feet, để khỏi bị bệnh.”


An trố mắt:


“Mẹ biết chuyện này nữa?”


“Mẹ biết chứ! Coi TV thì biết. Mà bạn của Mẹ cũng nói vậy.”


“Dạ. Mẹ thật cẩn thận!”


An dọn bữa ăn sáng cho Mẹ. Mẹ nhìn các thứ trên bàn, lắc đầu:


“Thời buổi này mua sắm khó khăn, mình ăn tiện tặn lại con à!”


“Dạ. Thế này là quá tiện tặn rồi đó Mẹ!”


“Ừ… Con này! Tự nhiên Mẹ nhớ lại cái thời người ta phải dè sẻn mọi thứ. Gạo không có mà ăn, phải ăn độn. Rồi thì ai đến chơi nhà bạn hay nhà bà con, muốn ở lại ăn cơm thì phải đem theo phần gạo cho chính mình, nghĩ mà thương. Bây giờ không phải là không có tiền, mà là có tiền nhưng không mua được đầy đủ như ý mình muốn… Rồi thì… ở yên trong nhà, nhà ai nấy ở, cái gì mà “cách ly”, giống như giới nghiêm vậy, thật không khác gì thời chiến tranh. Nhưng mà… lại không giống. Thời chiến tranh, người ta còn tới nhà nhau, thăm nhau được. Bây giờ không ai tới nhà ai. Gặp nhau, lại phải đứng cách nhau 6 feet. Lạ quá!”


Mẹ nói từ từ, từ từ, nói xong thì cũng vừa hết phần ăn sáng. Mẹ nhìn ra cửa. An biết Mẹ đang nhớ giờ ra đường. Mẹ vốn yếu ớt nên mấy hôm nay An không muốn cho Mẹ ra ngoài. An mở máy cho Mẹ tập theo bài thể dục nhẹ nhàng. Xem ra Mẹ cũng muốn tập dần với những điều khác thường nhưng đang trở thành bình thường. Nhà một mẹ một con, An cũng nhắc mình phải tập dần. Dù muốn hay không, cũng phải công nhận rằng mình đang sống trong cái thế giới “ảo” nhiều hơn thật. Làm việc online, đặt hàng online, gặp nhau online… Đôi khi, anh chị ghé nhà An cho chút quà, hoặc đi chợ mua lặt vặt giùm An, chỉ đến trước cửa đặt giỏ xuống, có thấy nhau thì cũng phải đứng xa nhau 6 feet, chào nhau rồi đi. Cứ như là ai cũng sợ rằng chỉ cần tỏ tình thương mến qua những câu nói dông dài sẽ đủ khiến cả nhà con virus bay theo hơi thở mà vào mũi người kia. Nghe có vẻ như đùa mà dễ thành sự thật lắm, cho nên ai cũng tuân thủ nguyên tắc “social distancing.”


Mở những trang tin, những email các nơi gửi về, tràn ngập biết bao điều chia sẻ. Một bạn kể rằng ngay cả người trong cùng một nhà cũng giữ khoảng cách an toàn. Giờ cơm, mỗi người tự bới cơm, ngồi ăn ở các góc xa nhau. Hơi tếu một chút, chị nói hai vợ chồng chị lo sợ quá nhưng không muốn ngủ riêng, sợ bị buồn, nên thỏa thuận nằm ngược đầu nhau. Hai vợ chồng cuối cùng tự thấy mình vô lý, cùng cười xòa công nhận với nhau: nằm ngược đầu vô ích, trừ khi ai cũng có chiều cao 6 feet.


Một bạn tâm sự về nỗi khó khăn của mình khi đối diện với những câu hỏi của đứa con năm tuổi: “Vậy con không được cho ai ôm nữa sao?” Bé nói mà ánh mắt rưng rưng. Cha mẹ của bé phải giải thích một hồi, và cuối cùng lại ôm bé vào lòng để bé thôi tỉ tê.


Một ông anh, suốt mấy năm trời hàng ngày nấu thức ăn Việt mang vào nursing home cho vợ, nay không được cho vào. Anh vẫn mỗi ngày đội giá rét đến trước cổng nursing home, nhìn vào, rồi ra về.


Một bạn khác nói về nỗi ray rứt của mình khi nhớ cha mẹ già ở Việt Nam, biết bao giờ mới được bay về thăm cha mẹ?


Một bạn nữa nói rằng có người thân qua đời nhưng không thể đến dự đám tang, đành chia buồn với nhau trên internet.


An não lòng khi nghe một người quen của mình chào vĩnh biệt người nhà qua facetime, một người bạn đi sinh con một mình vì ngay cả chồng của chị cũng không được theo cùng. Và ngay lúc này, hiện ra trên màn hình computer, là câu chuyện một bà mẹ vội vàng trùm hết cả người cô con gái y tá một tấm trải giường, chỉ để ôm lấy con trong phút giây ngắn ngủi cô ghé nhà rồi lại đi tới tuyến đầu chống bệnh.


Khi càng ngày tin tức về những vùng dịch trầm trọng càng đến dồn dập, An tự nhắc mình đừng bao giờ đứng về một thái cực nào. Không sợ hãi hoảng hốt, mà cũng không thờ ơ lạc quan giả tạo. Dịch bệnh đang hoành hành, bao nhiêu mạng sống đã mất đi, bao nhiêu người đang hy sinh ở tuyến đầu, đó là sự thật. Con virus này không chừa một ai, từ ông thủ tướng, ông nghị sĩ, đến người bác sĩ, y tá, cảnh sát, quân nhân, người buôn bán, học sinh sinh viên… Con virus này không phân biệt tuổi tác, nam nữ, giàu nghèo, tôn giáo, màu da. Sức mạnh của nó còn hơn cả thiên tai, hơn cả chiến tranh!


 


3


Lần xong chuỗi hạt, Mẹ nhắc An:


“Con đi ngủ đi! Con làm việc nhiều quá!”


“Dạ, Mẹ ngủ trước đi! Con sắp xong rồi.”


 “Con đừng để bị bệnh nghen!”


An giật mình. Trước giờ Mẹ vẫn coi An là một người trẻ trung khỏe mạnh.


“Dạ không, con không dễ bị bệnh đâu!”


“Con đừng tự tin quá! Chưa có vaccine ngừa cái con virus này đâu con!”


“Dạ con biết. Bao giờ có, mình sẽ thật sự an tâm ha Mẹ!”


An lắc đầu, tắc lưỡi. Phục Mẹ quá! Mẹ bây giờ quan tâm đến nhiều thứ hơn mình tưởng. Rất may là Mẹ có cái thế giới bạn bè của Mẹ, chuyện trò với nhau qua điện thoại mỗi ngày. Như vậy cũng hay, mình không phải giải thích nhiều. Thật ra có nhiều bậc cao niên rất cần sự giải thích của con cháu, vì họ sẽ rất ngỡ ngàng khi gặp những điều bất thường trong sinh hoạt hàng ngày. Không được giải thích, họ sẽ tưởng con cháu không thương họ hoặc xa lánh họ. Họ cũng rất mỏng manh và nhạy cảm như những em bé.


Mẹ ngủ được một lát rồi bắt đầu rục rịch. An nghĩ có lẽ ánh đèn bên ngoài hắt vào khiến Mẹ khó ngủ. Vậy mình cũng nên tắt đèn đi ngủ thôi! An nằm ở phòng sách, kế phòng Mẹ. Nằm một lát thì chính An bắt đầu rục rịch. Cảm giác gì lạ mà quen quá! À, hóa ra là thấy thiếu thiếu một cái gì. Trước đây, khi chưa có dịch bệnh này, mỗi đêm An thường ôm Mẹ, hôn hai bên má của Mẹ, rồi Mẹ hôn lại. Hai mẹ con chúc nhau ngủ ngon. Nửa đêm, những khi ngủ không được, An thường chạy vào giường Mẹ, chui tọt vào chăn, ôm lấy Mẹ và ngủ được ngay.


An đứng lên, ngần ngại. Nhưng rồi An kéo hộc tủ lấy ra một chiếc mask. An mỉm cười. Cái này được gọi là chiếc “khẩu trang” đây! An mang “khẩu trang” vào, và rón rén đi vào phòng Mẹ. Mẹ nói khẽ:


“Con lại đây!”


“Dạ.”


An ngồi lên giường của Mẹ, cảm thấy khao khát muốn chui vào tấm chăn của Mẹ. Cái mà hai mẹ con đang cần bây giờ là cái ôm thân quen mỗi ngày. Mẹ lấy từ trong chiếc túi ở đầu giường một cái mask khác. Mẹ nói:


“Chờ Mẹ một chút.”


Mẹ mang mask vào, nhanh nhẹn như một cô y tá. Mẹ cười:


“Con thấy Mẹ giỏi không?”


“Mẹ là giỏi nhất!”


An ôm lấy Mẹ, ôm lấy thân hình gầy gò của Mẹ, nhưng hồ như cảm nhận được dòng sữa chảy dạt dào từ thân Mẹ truyền qua cho mình, ấm, rất ấm…



Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh

Mùa Phục Sinh 2020

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Câu truyện mà tôi kể dưới đây diễn ra trên toàn miền Bắc Việt Nam từ khoảng năm 1965 tới 1972. Trong bẩy năm trời đó, hàng triệu người tham gia vào câu truyện này và là nhân chứng, vậy mà cho tới nay không một báo chí, một truyện ngắn, truyện dài nào nói đến “sự kiện lịch sử” này. Điều này làm cho tôi cứ băn khoăn suy nghĩ trong nhiều năm trời: Tại sao có những sự việc phi lý đến như vậy mà lại có hàng triệu người vui vẻ tuân theo; cho tới bây giờ đang thời kỳ “mở cửa”, tiếp xúc với “Thế giới văn minh” bên ngoài nhưng khi nghe hỏi về sự việc đó thì vẫn có rất nhiều người đồng tình với nó và cho đó là đúng, là hợp lý.
Ngày đầu khởi hành từ làng Mangkang, đoàn người vừa đi vừa lạy được hai mươi dặm, cứ mỗi bảy bước là một lạy, mọi người lạy dài xuống đất, để cả đầu, mình tay chân chạm đất. Họ lạy với tất cả tâm thành tôn kính đức Phật. Chị Zesay có bầu nhưng vẫn lạy như mọi người, cô bé Ceba mới mười hai tuổi, con gái của Tenzin cũng lạy như mọi người.
Năm 1620 xa xưa con tầu Mayflower đã chở các gia đình người Anh từ Anh Quốc vượt Đại Tây Dương đến châu Mỹ để tìm đất hứa. Ngày nay con tầu này cũng đưa chúng tôi rời khỏi VN để đi tìm một vùng đất hứa như vậy. Chúng tôi đi trong Tháng Tư nên tên tàu April Flower được khai sinh từ đó
Bằng ngôn ngữ không chủ từ, bằng câu kệ không đầu đuôi, tôi cố thuyết phục bệnh nhân rằng chết không phải là chọn lựa thích hợp, rằng đâu đó trên thế gian này vẫn còn một người yêu thương cô hơn yêu thương chính mình, rằng trong những thứ con người có được, không gì quý bằng mạng sống. Tôi nói cho một mình tôi nghe. Tôi kể chuyện mẹ tôi. Tôi kể chuyện cha tôi. Tôi kể chuyện em gái tôi. Tôi kể chuyện nửa đêm tôi quýnh quáng lại nhà người bệnh. Con mắt đứa bé đã đứng tròng, chân tay co giật từng hồi. Muộn lắm rồi. Nhưng người mẹ khóc lóc nài van. Chích cho cháu mũi thuốc hồi sinh. Hay thuốc gì cũng được. Miễn là có chích. Biết đâu cháu nó lại không chết. Mũi kim nhọn ánh lên dưới ánh đèn dầu trong đêm tăm tối. Vậy mà thằng bé lại sống, cô Thắm biết không. Bây giờ cô Thắm biết thằng bé ấy đang làm gì không. Nó học y tá. Nhà nó nghèo không vào trường y được nhưng nó nhất định làm y tá để cứu người. Cô gái vẫn nằm nghiêng quay mặt vào tường. Lạnh băng tượng gỗ. Đôi vai khẽ chuyển động như v
Lão Honda Accord đã quá già, hơn hai trăm ngàn dặm rồi chứ ít sao. Lão đã gắn bó với cậu chủ mười mấy năm nay. Ngày mới về với cậu chủ, lão còn mới toanh, cậu chủ cưng như trứng hứng như hoa, một tí trầy xước trên thân lão cũng đủ làm cậu chủ đau lòng, mỗi tuần cậu chủ tắm rửa đánh bóng lão… Ấy vậy mà giờ cậu chủ chẳng ngó ngàng gì đến lão nữa, lão già và trở nên xấu xí, đôi khi còn giở chứng nữa.
Bất cứ ai sống trên đời, không nhiều thì ít, đều có những kỷ niệm đặc biệt vui buồn in sâu trong tâm trí. Một trong những kỷ niệm này cũng là khi mình từng được lãnh nhận những món quà xem như những kỷ vật tinh thần vô giá được lưu trữ từ đời này đến đời nọ cho con cháu sau này.
Tiếng chuông chùa đòng vọng, vang xa trong không gian buốt lạnh của một chiều cuối Đông khiến quang cảnh quanh chùa trông thật tịch liêu. Mặt trời nghiêng về phía quê xưa. Những tia nắng mong manh nhẹ nhàng ve vuốt từng phiến đá gầy trước sân chùa.
Đăng lại nhớ chuyện con chó bơi qua sông trong một truyện ngắn của sư Giới Đức. Con chó ở chùa nghe chuông, ăn cơm chay, quanh năm quấn quýt với thầy. Một hôm kia nó nghe mùi thịt nướng bên kia sông nên bơi qua bên ấy, bơi đến giữa giòng thì nghe tiếng sư phụ gọi nên bơi quay về, gần tới bờ thì lại thèm mùi thịt nướng nên lại bơi ngược qua sông, cứ như thế nó bơi qua bơi lại đến khi kiệt sức thì chết đuối giữa giòng.
Tôi vẫn tin rằng tương lai một dân tộc, một đất nước sẽ khá hơn khi những công dân trẻ tuổi đặt câu hỏi này cho bản thân. Bởi vì những bạn trẻ đã tự vấn như vậy sẽ không để cho cuộc sống quí giá của mình trở nên lãng phí.
Khi nó mở mắt tỉnh dậy thì có cảm giác cả thân mình nó bị lôi ngược. Nó cố vùng vẫy nhưng cái đuôi có sợi dây buộc. Nó nhướng mắt nhìn về sau thì thấy hai con tàu màu xanh với những sọc đỏ chạy dọc hai bên lườn đang kéo nó ra khơi. Muosa cũng được hai con tàu khác lôi ngược ra xa. Khi cả thân mình to lớn của nó vẫy vùng dễ dàng trong làn nước biển thì sợi dây buộc ở đuôi được tháo ra. Nó ngoái đầu lại kêu “hoop hoop hoop” liên hồi. Nó không biết nói tiếng của loài người, nó cảm ơn những con tàu đã kéo nó về biển sâu bằng âm thanh của nó.
Vốn đã đóng góp nhiều cho một số tổ chức thiện nguyện hàng năm, đặc biệt là tổ chức "Raise Hope for Congo"(Phi Châu), trong đại dịch Aaron Rodgers đã trích một triệu đồng từ tiền túi của mình để giúp đỡ cho 80 cơ sở thương mại ở sinh quán của anh, thành phố nhỏ Chico ở miền Bắc California.
Vẫn như có sẵn định mệnh cho từng người, không ai chọn lựa được đâu! Ai mà biết được mình sẽ chết vì cái gì, chết lúc nào và chết ra sao? Có lẽ vì đã chứng kiến quá nhiều người chết nên Ái có một cách nghĩ cho riêng mình. Đó là làm việc bằng tinh thần của một người lính. Giường bệnh là chiến trận. Người lính chỉ có một con đường là chiến đấu.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.