Hôm nay,  

Cái Ôm

10/04/202015:59:00(Xem: 5396)


1


Mẹ ngồi xem lại những tấm hình, những đoạn phim quay lúc đi chơi. Mẹ cười thích thú.


“Chỗ này vui quá! Đông người, nghẹt thở luôn, nhưng mà Mẹ thích lắm! Mai mốt cho Mẹ đi lại chỗ này đi con!”


“Dạ.”


An cười, nhưng chợt khựng lại với ý nghĩ không biết bao giờ mới có thể cùng Mẹ đến những chỗ đông vui như vậy. Hơn hai tuần lễ thực hiện điều “ở yên trong nhà” mà thấy lâu như cả năm. Mặc dù An đã kéo hết công việc về làm tại nhà, không phải đi đến sở, An thấy vẫn còn nhiều thì giờ trống. Chính là những lúc trước đây dành cho việc chạy bộ tập thể dục, là những lúc đẩy xe cho Mẹ đi dạo để hít thở chút khí trời trong lành, là những buổi họp mặt bạn bè, đàn ca hát xướng cho vui… Nhiều lắm! Khi bình thường không ai để ý những điều đó, đến khi phải sống trong một bầu không khí mới, sẽ thấy có sự khác biệt rõ ràng.


An có giải thích cho Mẹ, nhưng chỉ đơn giản, ngắn gọn thôi, không muốn khiến Mẹ lo lắng. Rằng lúc này mình không nên đi ra đường nhiều, nhất là người có tuổi như Mẹ, để tránh bị mắc bệnh. Rằng cái con virus này mới toanh, chưa có thuốc chữa, cũng chưa có thuốc ngừa. Rằng con virus này có thể truyền bệnh từ người sang người, do những giọt li ti bắn ra khi người ta ho hay hắt hơi. Rằng ngay cả thở vào nhau cũng có thể truyền những con virus này. Thế thôi! Nói như vậy chỉ để Mẹ yên tâm mà ở trong nhà, không bị buồn.


Mẹ nói Mẹ cũng có đầy kinh nghiệm về những con vật tí hon dễ sợ như thế. Mẹ nói sợ nhất là con vi trùng thương hàn. Mẹ nhắc về ngày xưa, khi Mẹ ở tuổi mới lớn, mắc bệnh thương hàn, nặng đến nỗi tóc tai rụng hết, mình mẩy trơ xương. Mẹ nhắc về những con virus làm cháu của Mẹ bị bệnh sốt xuất huyết, bị sốt bại liệt… Mẹ sợ đến nỗi ngày đêm cầu Trời khấn Phật cứu giùm các cháu.


Từ ngày Mẹ yếu đến nỗi di chuyển trong nhà cần có người theo một bên, phải dùng đến cái walker, Mẹ ít khi phải nghe những chuyện bệnh tật. Đó là vì không ai muốn Mẹ phải nghe. Tránh được thì tránh, không thì phải thật đơn giản, càng ít càng tốt.


“An này! Hai tuần nay không thấy anh chị đưa các cháu đến chơi.”


“Dạ, Mẹ, mình đang phải theo lệnh ở yên trong nhà.”


Mẹ thở dài:


“Ừ há! Mẹ quên. Vậy bao giờ Mẹ mới gặp tụi nhỏ?”


“Chắc cũng không lâu đâu Mẹ! Mình ráng chờ.”


An biết cho đến khi nào có vaccine để ngừa bệnh thì lúc đó mới thật sự yên tâm. Trong nhiều ngày nữa chưa chắc Mẹ sẽ được gặp các cháu. Mọi người dùng điện thoại để liên lạc. May mà có phương tiện này!


“Mẹ ơi, lúc này mình ít ra ngoài, Mẹ gọi điện thoại thăm mấy cô bác đi! Chắc họ cũng thích trò chuyện lắm đó!”


“Ừ nhỉ! Chắc họ cũng buồn vì không được đi đâu cả.”


Thế là Mẹ bắt điện thoại gọi cho mấy bà bạn. Những câu chuyện vui khiến Mẹ cười khanh khách. Nhưng cũng có lúc nét mặt của Mẹ trầm tư, Mẹ ngồi lặng yên không nói. Đến tối, khi thấy An hết việc rồi, Mẹ kể:


“Bác Hai, bác ấy nói là thấy buồn lắm, vì anh của bác ấy vào bệnh viện, mà người nhà không ai được vào theo, không được thăm, chỉ có thể nói chuyện qua điện thoại. Anh của bác ấy sắp mất rồi, mà bác ấy không làm gì được. Rồi thì như nhiều người khác, ông anh sẽ chết cô đơn trong bệnh viện.”


An dọn cơm ra chiếc bàn thấp cho Mẹ. Mẹ vẫn ngồi trên giường, xoay người ra để ăn cơm. An chạy ra khá xa, vừa dọn dẹp vừa nói chuyện với Mẹ. Mẹ hỏi:


“Sao con không ăn cơm luôn?”


“Mẹ ăn trước đi, con làm chút chuyện rồi ăn.”


Mẹ có vẻ không vui. Thường ngày hai mẹ con cùng ăn cơm với nhau, hôm nay Mẹ lại phải ăn một mình. Thấy Mẹ giằm giằm cái muỗng trong chén, An bật cười, giải thích:


“Mẹ à, từ nay con phải đứng xa Mẹ một chút, vì con là người chăm sóc Mẹ, mà con lại còn phải ra đường đi mua thức ăn và các thứ cần thiết. Con có thể đang mang mầm bệnh mà không hay, lỡ con lây cho Mẹ thì khổ. Nhưng ngoài con ra thì không ai có thể thay con ở bên cạnh Mẹ. Vậy Mẹ chịu khó…”


“Mẹ hiểu rồi! Con nói phải. Mẹ hiểu mà!”


Ban đêm, Mẹ ngủ ngon, nhưng An lại trằn trọc. Những lúc ngủ không được, An thường chạy vào giường Mẹ, chui tọt vào chăn, ôm lấy Mẹ và ngủ được ngay. Nay thì không. Hai mẹ con hứa với nhau “giữ khoảng cách an toàn” như mọi người. Được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Và giữ như vậy sẽ giúp Mẹ “làm quen” với kiểu cách mới này, sẽ không trách móc khi mấy đứa cháu đến nhà mà không ôm hôn bà như trước.


 


2


Buổi sáng, Mẹ ở trong phòng tắm rất lâu. An rón rén đi vào, thấy Mẹ đang rửa tay. Mẹ nói:


“Bạn của Mẹ bảo phải rửa tay cho đúng cách, ít nhất 20 giây con ạ!”


An phì cười:


“Dạ phải. Con cũng định nói với Mẹ như vậy.”


“Ừ, có như vậy mình mới không bị bệnh. Mẹ sợ bị bệnh lắm!”


Mẹ tự đi ra với cái walker, không cho An giúp. Mẹ nói:


“Con cứ ở cách xa Mẹ sáu feet, để khỏi bị bệnh.”


An trố mắt:


“Mẹ biết chuyện này nữa?”


“Mẹ biết chứ! Coi TV thì biết. Mà bạn của Mẹ cũng nói vậy.”


“Dạ. Mẹ thật cẩn thận!”


An dọn bữa ăn sáng cho Mẹ. Mẹ nhìn các thứ trên bàn, lắc đầu:


“Thời buổi này mua sắm khó khăn, mình ăn tiện tặn lại con à!”


“Dạ. Thế này là quá tiện tặn rồi đó Mẹ!”


“Ừ… Con này! Tự nhiên Mẹ nhớ lại cái thời người ta phải dè sẻn mọi thứ. Gạo không có mà ăn, phải ăn độn. Rồi thì ai đến chơi nhà bạn hay nhà bà con, muốn ở lại ăn cơm thì phải đem theo phần gạo cho chính mình, nghĩ mà thương. Bây giờ không phải là không có tiền, mà là có tiền nhưng không mua được đầy đủ như ý mình muốn… Rồi thì… ở yên trong nhà, nhà ai nấy ở, cái gì mà “cách ly”, giống như giới nghiêm vậy, thật không khác gì thời chiến tranh. Nhưng mà… lại không giống. Thời chiến tranh, người ta còn tới nhà nhau, thăm nhau được. Bây giờ không ai tới nhà ai. Gặp nhau, lại phải đứng cách nhau 6 feet. Lạ quá!”


Mẹ nói từ từ, từ từ, nói xong thì cũng vừa hết phần ăn sáng. Mẹ nhìn ra cửa. An biết Mẹ đang nhớ giờ ra đường. Mẹ vốn yếu ớt nên mấy hôm nay An không muốn cho Mẹ ra ngoài. An mở máy cho Mẹ tập theo bài thể dục nhẹ nhàng. Xem ra Mẹ cũng muốn tập dần với những điều khác thường nhưng đang trở thành bình thường. Nhà một mẹ một con, An cũng nhắc mình phải tập dần. Dù muốn hay không, cũng phải công nhận rằng mình đang sống trong cái thế giới “ảo” nhiều hơn thật. Làm việc online, đặt hàng online, gặp nhau online… Đôi khi, anh chị ghé nhà An cho chút quà, hoặc đi chợ mua lặt vặt giùm An, chỉ đến trước cửa đặt giỏ xuống, có thấy nhau thì cũng phải đứng xa nhau 6 feet, chào nhau rồi đi. Cứ như là ai cũng sợ rằng chỉ cần tỏ tình thương mến qua những câu nói dông dài sẽ đủ khiến cả nhà con virus bay theo hơi thở mà vào mũi người kia. Nghe có vẻ như đùa mà dễ thành sự thật lắm, cho nên ai cũng tuân thủ nguyên tắc “social distancing.”


Mở những trang tin, những email các nơi gửi về, tràn ngập biết bao điều chia sẻ. Một bạn kể rằng ngay cả người trong cùng một nhà cũng giữ khoảng cách an toàn. Giờ cơm, mỗi người tự bới cơm, ngồi ăn ở các góc xa nhau. Hơi tếu một chút, chị nói hai vợ chồng chị lo sợ quá nhưng không muốn ngủ riêng, sợ bị buồn, nên thỏa thuận nằm ngược đầu nhau. Hai vợ chồng cuối cùng tự thấy mình vô lý, cùng cười xòa công nhận với nhau: nằm ngược đầu vô ích, trừ khi ai cũng có chiều cao 6 feet.


Một bạn tâm sự về nỗi khó khăn của mình khi đối diện với những câu hỏi của đứa con năm tuổi: “Vậy con không được cho ai ôm nữa sao?” Bé nói mà ánh mắt rưng rưng. Cha mẹ của bé phải giải thích một hồi, và cuối cùng lại ôm bé vào lòng để bé thôi tỉ tê.


Một ông anh, suốt mấy năm trời hàng ngày nấu thức ăn Việt mang vào nursing home cho vợ, nay không được cho vào. Anh vẫn mỗi ngày đội giá rét đến trước cổng nursing home, nhìn vào, rồi ra về.


Một bạn khác nói về nỗi ray rứt của mình khi nhớ cha mẹ già ở Việt Nam, biết bao giờ mới được bay về thăm cha mẹ?


Một bạn nữa nói rằng có người thân qua đời nhưng không thể đến dự đám tang, đành chia buồn với nhau trên internet.


An não lòng khi nghe một người quen của mình chào vĩnh biệt người nhà qua facetime, một người bạn đi sinh con một mình vì ngay cả chồng của chị cũng không được theo cùng. Và ngay lúc này, hiện ra trên màn hình computer, là câu chuyện một bà mẹ vội vàng trùm hết cả người cô con gái y tá một tấm trải giường, chỉ để ôm lấy con trong phút giây ngắn ngủi cô ghé nhà rồi lại đi tới tuyến đầu chống bệnh.


Khi càng ngày tin tức về những vùng dịch trầm trọng càng đến dồn dập, An tự nhắc mình đừng bao giờ đứng về một thái cực nào. Không sợ hãi hoảng hốt, mà cũng không thờ ơ lạc quan giả tạo. Dịch bệnh đang hoành hành, bao nhiêu mạng sống đã mất đi, bao nhiêu người đang hy sinh ở tuyến đầu, đó là sự thật. Con virus này không chừa một ai, từ ông thủ tướng, ông nghị sĩ, đến người bác sĩ, y tá, cảnh sát, quân nhân, người buôn bán, học sinh sinh viên… Con virus này không phân biệt tuổi tác, nam nữ, giàu nghèo, tôn giáo, màu da. Sức mạnh của nó còn hơn cả thiên tai, hơn cả chiến tranh!


 


3


Lần xong chuỗi hạt, Mẹ nhắc An:


“Con đi ngủ đi! Con làm việc nhiều quá!”


“Dạ, Mẹ ngủ trước đi! Con sắp xong rồi.”


 “Con đừng để bị bệnh nghen!”


An giật mình. Trước giờ Mẹ vẫn coi An là một người trẻ trung khỏe mạnh.


“Dạ không, con không dễ bị bệnh đâu!”


“Con đừng tự tin quá! Chưa có vaccine ngừa cái con virus này đâu con!”


“Dạ con biết. Bao giờ có, mình sẽ thật sự an tâm ha Mẹ!”


An lắc đầu, tắc lưỡi. Phục Mẹ quá! Mẹ bây giờ quan tâm đến nhiều thứ hơn mình tưởng. Rất may là Mẹ có cái thế giới bạn bè của Mẹ, chuyện trò với nhau qua điện thoại mỗi ngày. Như vậy cũng hay, mình không phải giải thích nhiều. Thật ra có nhiều bậc cao niên rất cần sự giải thích của con cháu, vì họ sẽ rất ngỡ ngàng khi gặp những điều bất thường trong sinh hoạt hàng ngày. Không được giải thích, họ sẽ tưởng con cháu không thương họ hoặc xa lánh họ. Họ cũng rất mỏng manh và nhạy cảm như những em bé.


Mẹ ngủ được một lát rồi bắt đầu rục rịch. An nghĩ có lẽ ánh đèn bên ngoài hắt vào khiến Mẹ khó ngủ. Vậy mình cũng nên tắt đèn đi ngủ thôi! An nằm ở phòng sách, kế phòng Mẹ. Nằm một lát thì chính An bắt đầu rục rịch. Cảm giác gì lạ mà quen quá! À, hóa ra là thấy thiếu thiếu một cái gì. Trước đây, khi chưa có dịch bệnh này, mỗi đêm An thường ôm Mẹ, hôn hai bên má của Mẹ, rồi Mẹ hôn lại. Hai mẹ con chúc nhau ngủ ngon. Nửa đêm, những khi ngủ không được, An thường chạy vào giường Mẹ, chui tọt vào chăn, ôm lấy Mẹ và ngủ được ngay.


An đứng lên, ngần ngại. Nhưng rồi An kéo hộc tủ lấy ra một chiếc mask. An mỉm cười. Cái này được gọi là chiếc “khẩu trang” đây! An mang “khẩu trang” vào, và rón rén đi vào phòng Mẹ. Mẹ nói khẽ:


“Con lại đây!”


“Dạ.”


An ngồi lên giường của Mẹ, cảm thấy khao khát muốn chui vào tấm chăn của Mẹ. Cái mà hai mẹ con đang cần bây giờ là cái ôm thân quen mỗi ngày. Mẹ lấy từ trong chiếc túi ở đầu giường một cái mask khác. Mẹ nói:


“Chờ Mẹ một chút.”


Mẹ mang mask vào, nhanh nhẹn như một cô y tá. Mẹ cười:


“Con thấy Mẹ giỏi không?”


“Mẹ là giỏi nhất!”


An ôm lấy Mẹ, ôm lấy thân hình gầy gò của Mẹ, nhưng hồ như cảm nhận được dòng sữa chảy dạt dào từ thân Mẹ truyền qua cho mình, ấm, rất ấm…



Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh

Mùa Phục Sinh 2020

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Rứa là tui được hưởng hai cái bánh nhỏ thanh tao dòn rụm, bột họ pha răng mà mê rứa không biết, kèm mấy lát vả, lát khế, rau sống chấm nước tương pha chế ngon ơi là ngon. Tỉnh táo bao tử rồi hắn chở tui đi vòng thành phố Huế, qua khu Thương Bạc, ủa bữa ni răng mà người đông rứa, bớt vẻ yên tĩnh như ngày xưa, tiệm quán cũng mọc lên khó còn đất trống. Vừa đi hắn vừa kể nỗi gian khổ lúc trẻ, nay thì hậu vận quá tốt, con có địa vị thành công, chồng cưng yêu nhiều hơn lúc tuổi xế chiều, mà nhìn kỹ hắn tươi đẹp mặn mà ghê, chắc hạnh phúc gia đình biến sắc thêm xinh hè. Đi nửa ngày hắn thả tui về nhà” tau bận chút chuyện, sẽ gặp mi sau nữa nghe. Tui cám ơn hắn, gần 50 năm tuy xa mà hắn vẫn nhớ, vẫn đầy tình bạn thân thiết như hồi mô.
Sàigòn cũng như Phan Rang không có 4 mùa, nhất là mùa Thu. Nhưng Sàigòn cũng như Phan Rang đều có những đêm trăng Thu mờ ảo đẹp và buồn giống như mắt của em.
Cuộc điện thoại đã dứt mà Tử Linh vẫn còn đứng tần ngần một lúc rồi mới quay trở ra hiên, ngồi xuống cái ghế gỗ mà khi nãy cô đang ngồi, vừa đọc sách, vừa nhâm nhi tách trà nóng và những chiếc bánh madeleine thơm mùi vanilla trước khi tiếng chuông điện thoại từ trong phòng khách buộc cô phải chạy vào...
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng, họ còn kháo nhau là mật thiết hơn cả tam tinh, tam điểm, tam tụ, tam anh… Chẳng cần kết nghĩa đào viên nhưng chúng sống chết có nhau, chưa bao giờ rời nhau một li hay một khoảnh khắc nào. Thỉnh thoảng cũng có xung đột giữa ba đứa nhưng rồi cũng trôi qua êm thấm. Cả ba nương tựa nhau, hỗ trợ nhau, sinh hoạt qua lại với nhau. Thật tình mà nói thì chỉ có hai mới đúng, vì thằng Tưởng vốn là đệ tử ruột của thằng Tâm mà ra, tuy nhiên vẫn có sự khác biệt nào đó nên thiên hạ cho là ba, nói cho cùng thì là bộ bà cũng đúng hay khắt khe bảo bài trùng cũng không sai.
Lật bật đã tới tháng 9 mùa tựu trường. Lòng nao nao nhớ thời học sinh nhỏ nhít đất thần kinh xưa. Ở Huế, mùa tựu trường cũng tưng bừng rộn rịp như bất cứ nơi nào khác trên đất quê nhà. Cũng bâng khuâng luyến tiếc những ngày hè tươi đẹp chóng qua. Cũng nao nức trở lại trường lớp gặp bạn thầy cũ, mới. Có khác chăng mặt mũi mấy cô mấy cậu học trò đều phảng phất một vẻ nghiêm trọng. Làm như mình đã trưởng thành tới nơi!
Cách đây 5 năm ông bà này có cho một cậu sinh viên Việt nam trẻ tuổi, đáng tuổi con cháu xin mướn phòng ở trọ học tại nhà ông bà cho đến đầu năm tới 2025, cậu sinh viên này sẽ tốt nghiệp đại học 4 năm với văn bằng cử nhân
Cũng như các trại tỵ nạn khác, ở Thailand cũng có một khu “nhà tù” dành cho những người tỵ nạn không chấp hành quy định của Bộ Nội Vụ Thái hay của Cao Ủy tỵ nạn. Thời hạn ở tù tùy theo mức độ phạm quy, có khi từ một vài ngày cho tới một hai tuần. “Tù nhân” cũng đủ loại, nhẹ thì có những người mua lén đồ ngoài hàng rào, thức quá giờ giới nghiêm, quên làm vệ sinh khu nhà được phân công, nặng hơn là thành phần đánh lộn, gây mất trật tự trong trại, trộm cắp vặt, trốn ra ngoài trại đi chơi.
Tháng 7 năm 1954, hiệp định Genève chia đôi đất nước Việt Nam, người Pháp thất bại ở mặt trận Điện Biên Phủ, trả lại chủ quyền miền Bắc cho việt cộng. Việt Minh kéo từ mạn ngược và khắp nơi chúng đã ẩn náu về tiếp thu thủ đô Hà Nội và sau đó, toàn thể các tỉnh thành phía Bắc cho vào tới vĩ tuyến 17. Chúng ta mất một nửa giang sơn. Pháp có 80 ngày chuyển giao Hà Nội, 100 ngày giao Hải Dương, 300 ngày trả Hải Phòng, rồi chấm dứt. Việt cộng nằm vùng trong miền Nam cũng tự do ra Bắc tập kết, dù rất ít, nhưng làn sóng người miền Bắc di cư vào Nam thì đông nườm nượp… như nước vỡ bờ, họ chạy trốn, họ sợ cộng sản, họ sợ cái chế độ tam vô đang rượt đuổi sau lưng. Họ ra đi lánh nạn, đa phần phải bỏ lại gia sãn của cải, mồ mả cha ông… họ ra đi nhanh, mau lẹ nhất là các thành phố Hà Nội Hải Phòng, các xứ họ đạo công giáo Bùi Chu, Phát Diệm… có người vội vã đến chỉ ôm theo một tấm ảnh đức mẹ Maria… họ rủ nhau cứ xuống Hải Phòng là có tàu há mồm, há mồm chờ sẵn, chờ họ lên tàu và chở họ vô miền Nam.
Hà Nội có mùa Thu, Ninh Thuận quê tôi ở đó chỉ có hai mùa nắng gió. Buổi sáng mai hôm ấy mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua con đường làng Xóm Động, rồi đến con đường cái quan tráng nhựa. Mẹ tôi nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua cầu "Ông Cọp", rồi cầu "Nước Đá" và đến tận cửa trường tiểu học Phan Rang. Tôi cúi đầu đi qua cổng trường có tấm biển lớn có hàng chữ Tây: "Indochine Francais- École Primaire De Phanrang"...Giữa sân trường có cột cờ với lá cờ ba màu của Pháp treo tận chót vót. Trường của tôi hình như vừa quét nước vôi và có cửa kiến, tôi thoáng nghe mùi cửa sổ mới sơn.
Trước năm 1975, ngày đó tôi còn là một cậu thiếu niên ham thích đọc tiểu thuyết trinh thám mạo hiểm của Người Thứ Tám với nhiều câu truyện phiêu lưu, hồi hộp của chàng điệp viên Z-28 đào hoa, đẹp trai Tống Văn Bình. Tôi còn nhớ chàng điệp viên tài giỏi, võ nghệ siêu quần của chúng ta được phái đi thi hành một nhiệm vụ tình báo tại Maldives, một đảo quốc mà khi chúng ta nhìn về phía chân trời, nơi Trời và Biển gặp nhau, vì chính chúng ta cũng đang sống trên mặt nước...
Khoảng gần ba giờ chiều tôi rời khách sạn Ninh Kiều, cuối đường Hai Bà Trưng, nhìn ra sông Cần Thơ. Trời hanh nóng và đứng gió. Giấc ngủ trưa dài sau bữa ăn nhẹ, khiến tôi tỉnh táo và phấn chấn hẳn lên. Hãy còn sớm, hai giờ nữa tôi mới có hẹn với gia đình người bạn thân ở nhà hàng Hoa Sứ. Thời gian đủ để tôi dạo chơi và ghé chợ Cần Thơ tìm mua một vài thứ đồ lưu niệm… Vài cơn gió nhẹ mang theo hơi nước từ dòng sông thổi dọc theo công viên thật dễ chịu. Bến Ninh Kiều ngày nay thật khang trang và đẹp. Đi dọc mé sông, từ đây tôi có thể nhìn thấy chiếc cầu treo Cần Thơ sừng sững, hiện đại. Phía trước khách sạn là nhà hàng nổi và không xa là chiếc du thuyền nhà hàng lộng lẫy về đêm. Du khách vừa ăn tối vừa dạo cảnh quanh sông và có cảchương trình văn nghệ thật đặc sắc của miền Tây sông nước
Nàng tỉ tê với nhỏ bạn về những cuộc “thảo luận” sôi nổi của vợ chồng nàng. Bằng mọi giá, nàng muốn giữ cho đứa con có tuổi thơ tươi đẹp, hạnh phúc. Bao năm qua, đã có lúc nàng buồn rầu nghĩ, mình như con gà đẻ trứng vàng. Chỉ được việc, nhờ biết đẻ trứng vàng. Nàng không dám đề cập đến chuyện tiền bạc, sợ làm chồng buồn, cho rằng nàng cậy sức mạnh kim tiền lấn áp chồng. Nàng rất may mắn trong cuộc sống ngoài xã hội. Chưa ra trường, nàng đã nhận được hợp đồng làm việc với một trong những hãng hàng đầu của nước Đức. Ngược lại, chồng nàng quá lận đận. Cả năm trời, anh chạy đôn, chạy đáo tìm việc, mà vẫn phải nằm nhà. Nàng tự nhủ, tài lộc trời ban, gia đình sống thoải mái, chứ tính toán chi mà mất hòa khí vợ chồng. Tháng tháng, nàng thanh toán nợ to, nợ nhỏ, hàng hàng lớp lớp chi phí tất yếu của xã hội văn minh.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.