Hôm nay,  

Ôn Dịch

21/05/202014:40:00(Xem: 4825)

 


 Cả ngàn cây im phăng phắc, không một chiếc lá lay, không một cơn gió thoảng. Khu rừng trầm lắng đến độ có thể nghe được âm thanh tăng trưởng của từng thớ gỗ trong thân cây, cái không khí lặng mà căng như dây đàn, nó dồn nén tưởng chừng chỉ cần một tác động nhỏ cũng có thể làm bùng lên, nổ tung ra. Toàn bộ cây rừng đang lo lắng cho số phận của mình, dù biết rằng có lo sợ cũng không giải quyết được gì, nhưng một khi đứng trước cái chết gần kề thì không thể nào không lo. Các loài thú rừng, chim muông, sâu bọ…cũng hoang mang tột độ. 

 Cụ thông già vài trăm tuổi nhưng thân hình rắn rỏi vươn thẳng lên trên không, mái đầu xanh thẫm, thân rất ít cành nhánh. Cụ đã trải qua bao nhiêu bão tố, tuyết băng… mùa đông có lạnh thế nào đi nữa cũng không thể làm suy sắc xanh của cụ. Cụ là chứng nhân biết bao chuyện buồn vui của khu rừng này và thế sự của loài người quanh đây. Cụ cất tiếng ồm ồm:

 - Kiếp nạn chúng ta sắp đến rồi, bọn người sẽ đến chặt phá, ủi trọc khu rừng này. Bọn họ dự định xây một thương xá mới ở đây. Bọn họ thật ích kỷ và lãng phí! những thương xá cũ vẫn còn bền vững nhưng quyết bỏ đi để xây cái mới. Bọn họ sống nhờ dưỡng khí của chúng ta cung cấp, điều hoà chúng ta làm, chắn bão chúng ta lo, ngăn xói mòn lũ lụt chúng ta liều thân…Ấy vậy mà bọn họ laị đi haị chúng ta không thương tiếc. Bọn họ thậm vô minh, haị chúng ta cũng tức là haị chính bản thân họ, con cháu họ. 

 Bấy giờ khu rừng mới lào xào, có tiếng thút thít, tiếng thở dài, thậm chí có tiếng phẫn nộ. Bọn cát đằng, cát căn, tường vi, đậu biếc, chùm ớt… quấn quýt nương nhờ những thân chủ quanh đấy rên rỉ:

 - Chúng ta chết ư? làm sao bây giờ? Chúng tôi không muốn chết! 

 Những hạng tầm trung như: hoàng điệp, xoan, táo nhơn, dogwood… thì run rẩy:

 - Kiếp nạn thật rồi! bọn ta dâng hoa quả cho đời, thế mà bây giờ bị haị, thật không công bằng tí nào! 

 Đám cây bụi: cùm rụm, dú dẻ, mận gai, mân xôi, việt quất…than vãn ỉ ôi:

 - Chúng mình thấp cổ bé họng, sống chết bởi tay người. Chúng mình góp cho đời quả ăn, thuốc uống nhưng giờ người đối xử không ra làm sao cả! 

 Riêng đám cỏ gấu, cỏ cú, mắc cỡ, cỏ may…chẳng biết vì đần độn, vô tư lự hay nâng bi mà trơ tráo tuyên bố:

 - Chuyện lớn có người lo, chúng ta cứ sống mà hưởng là được rồi, đừng nghe lời xúi của bọn phá đám! 

 Đặc biệt họ nhà dương xỉ, tuy thân thảo nhỏ bé, mền yếu nhưng laị có sức sống mãnh liệt phi thường. Dương xỉ vẫn thường tự hào:

 - Tổ tiên nhà tớ có mặt ở thế gian này từ kỷ Jura, tuổi ngang bọn khủng long, bọn ấy và bao loài khác bị tuyệt chủng thế mà họ nhà tớ vẫn còn đến hôm nay. Bọn tớ là nhân chứng sống, là hoá thạch sống của loài thực vật. Họ nhà tớ đã từng trải vô số kiếp nạn: động đất, cháy rừng, đất lở, lũ quét, bão tố, băng hà… nhưng vượt qua cả! 

 Lời thì thầm của dương xỉ như làn sóng âm vang trong hư không, muôn loài đều cho là phải, phần nào trấn an cây rừng và muông thú. Cây bạch quả cũng là cư dân lâu đời nhất nhì của khu rừng, danh phận cũng thuộc hàng có số má. Thân cao to, chỉ thua loài cù tùng, tuyết tùng mà thôi. Tuy thân dáng dấp trượng phu nhưng tâm hồn như cô gái, mỗi mùa thu là vàng rực cả lên, lấp lánh sắc màu, tung vào không gian muôn triệu chiếc lá rực rỡ như bướm bay. Lá bạch quả làm sáng cả khu rừng, thảm lá đẹp như người ta rắc cánh hoa, rắc kim tuyến trên sàn catwalk của những cô đào xi nê. Bạch quả vượt trên tán rừng, nói riêng với cụ thông:

 - Kiếp nạn này thật nghiêm trọng, bọn chúng ta chết đã đành, chỉ e con cháu tuyệt diệt, vô số thú rừng mất giống, muôn loài thê thảm thay. Nếu ngày xưa cháy rừng, động đất, bão tố… chỉ ảnh hưởng một khu vực nào đó thôi, còn kiếp nạn này thì tất cả cùng chung số phận. Bọn người kéo đến với máy móc cơ khí và phương tiện hiện đaị thì không một loài nào có thể thoát. Bọn người dùng hoá chất khai quang, chất sinh hoá… thì tất cả chết sạch! cậu thấy đấy, hàng triệu ha rừng đã cạo sạch, đất đai sa mạc hoá, hàng ngàn kênh rạch bị lấp, nhiều ngàn con sông bị bức tử, nhiễm độc, đaị dương nhiễm độc, rác thải nhựa ngập biển… những con cá voi vốn là cư dân khổng lồ của hành tinh này cũng chết oan vì nuốt nhựa. Cái chết đang đe dọa muôn loài! Bọn người chỉ là một phần nhỏ cùng cộng sinh ở thế gian này, nhưng lòng tham, sự ích kỷ, tàn độc đang ra tay haị muôn loài, bức tử mẹ thiên nhiên. 

 Những cây dầu nghe lọt lời tâm sự của bạch quả, lòng cũng sầu vô hạn, thả những quả dầu xoay tít trong không trung để cầu nguyện:

 - Mong cho kiếp nạn này sớm vượt qua, mong sao loài người tỉnh thức, ngừng bức haị thiên nhiên. Họ phải hiểu rằng: Bức haị thiên nhiên chính là tự haị mình, tự đầu độc chính mình! 

 Cây chò chỉ, cây sao, cây sồi… chụm đầu bàn bạc:

 - Chúng ta phải có kiến nghị, cư dân của khu rừng này cũng như những nơi khác ( dù chưa bị haị) cũng phải lên tiếng! nếu im lặng thì hôm nay chúng tôi chết, ngày mai sẽ đến lượt các bạn!

 Gió nổi lên ầm ầm, cả khu rừng lay động, gió lan từ rừng này sang rừng khác, gió vượt qua triền đồi, gió thổi lên non. Muôn loài hưởng ứng lời kêu gọi sinh tử thống thiết. Cây tuyết tùng hiệu triệu:

 - Hỡi cư dân thảo mộc! loài thân gỗ, thân thảo; loài lá kép, lá đơn; loài thường niên, loài mùa vụ; loài đứng thẳng, loài leo quấn; loài thân ngầm, thân lộ. Hỡi cư dân muông thú! Loài có thân chạy cánh bay, loài có chân đi vây bơi, loài trên cạn dưới nước, loài có da có lông, có vảy, loài hai chân bốn chân hoặc nhiều chân; loài sống thọ sống ngắn…Tất cả chúng ta cùng cộng sinh, tương tác qua laị với nhau. Loài người cũng cùng cộng sinh nhưng ra tay tàn độc. Chúng ta chết bọn họ cũng chết, chúng ta sống bọn họ mới sống được. Chúng ta phải lên tiếng, phải hành động, bằng không thì chết tất cả! 

 Gió đưa lời tuyết tùng bay xa, bay cao khắp bốn phương. Rừng rùng rùng lay động, muông thú rền rĩ, biển dâng sóng lớn, đất chấn động trong lòng làm làn sóng toả khắp mặt địa cầu. Các vị thần nương cây cao bóng cả dùng thần lực truyền lời kêu của tuyết tùng vang khắp cõi người ta. Vô số các vị thần rừng, thần núi, thần sông, thần biển…cùng trợ lực cho lời tuyết tùng mạnh mẽ hơn, thẩm thấu hơn vào tâm can của bọn người. Các vị thần hứa:



 - Chúng tôi sẽ hộ vệ những người biết bảo vệ thiên nhiên,  tìm mọi cách cảnh tỉnh người mê muội tàn độc. Kiếp nạn này tuy nguy hiểm nhưng có thể khắc phục được, chỉ cần loài người giảm bớt tham, bớt mê muội và tàn độc thì tất cả sẽ được cứu! 

 Cây bồ đề nói chậm rãi nhưng rõ ràng rành mạch từng lời: 

 - Loài người vô minh đã lâu, cái bản tánh của họ bị mê mờ vì tiền bạc, danh vọng, sắc dục…Cái tâm họ vốn như tấm kiếng, nhưng vì buị đất, sắc màu phủ lên, giờ phải lau bụi và sắc màu đi thì họ sẽ tỉnh ra thôi! Tuy nhiên nói thì dễ nhưng làm thì khó lắm, cần phải kiên trì và thời gian dài. Một khi loài người tỉnh ra thì họ sẽ an, họ an thì muôn loài mới an theo. 

 Thần cai quản thú rừng buồn rầu:

 - Cư dân chúng tôi cai quản ngày càng cạn kiệt, nhiều loài bị  tuyệt chủng và nhiều loài nữa đang bị đe dọa. Những con thú vô tội là nạn nhân của con người, họ tận dụng mọi cách để bắt và sát haị. Ngày xưa với bẫy thú thô sơ thì không sao, ngày nay với phương tiện khoa học kỹ thuật cao, nào là súng, lưới, âm thanh giả, sóng âm nhân tạo…họ tận diệt không thương tiếc. Các con vật trên không, trong rừng, dưới nước đều bắt cho kỳ hết. Họ ăn thịt, lấy da, lấy lông, lấy vuốt, lấy ngà, lấy xương…trăm ngàn cách giết tàn bạo để ăn thịt, uống máu, nấu cao, giết để làm thú tiêu khiển… Những con thú vô tội, ngày đêm sống trong sự sợ hãi. Rừng núi cào phá, sông ngăn, biển lấp, bức haị mẹ thiên nhiên như thế thì sớm muộn gì cũng phải nhận lấy hậu quả thảm khốc!  

 Thế rồi khu rừng san phẳng, toàn bộ cây rừng triệt hạ, muông thú chết, chỉ một số ít vượt thoát sang những khu rừng khác. Nơi ấy mọc lên một thương xá đồ sộ, người vào ra mua bán ì xèo , bao nhiêu của cải, quần áo, phấn son, đồ đạc trưng bày lềnh khênh. Trong dãy hàng ăn  bao nhiêu xác thú rừng treo lủng lẳng: thịt hưu, nai, hoẵng, lợn lòi…trong những cái lồng sắt bọn chồn, thỏ, nhím, rắn… ngơ ngáo, đau khổ hoảng loạn trong cơn sợ hãi hùng. Chúng gào lên ư ử, chạy tới lui để tìm đường ra  trông thật đau lòng. Những nhà hàng đặc sản bày bán thân xác của cư dân rừng nào là: lẩu pín cọp, tay gấu, tim rắn, óc khỉ, súp dơi, bào thai chuột, thậm chí nhau thai của chính bọn người. Hồn các con thú căm hờn rền rĩ từ ngoài chợ cho đến bếp nấu và quanh bàn ăn của các thực khách. Chúng kêu đền mạng, chúng đòi trả oán, chúng gào khóc phải trả laị máu thịt của chúng…Tiếc là bọn đầu bếp và đám thực khách không nghe thấy, không hay biết chi cả. Cuộc sống kim tiền càng thịnh thì các con thú càng chết thảm, xác chúng sẽ chế biến thành những món ăn độc nhất cho bọn người nhiều tiền ít đức, thừa kim ngân thiếu tình thương, dư của cải thiếu lương tâm. Bọn họ tin rằng: ăn thú rừng với những cách chế biến tàn độc ấy sẽ cường dương, bổ thận, sẽ sống lâu để hưởng thụ… Loài dơi vốn chẳng haị ai, laị có ích cho bọn người. Dơi ăn muỗi mòng, côn trùng  thế mà chết thảm trong bát súp, xác chúng trong bát súp trông ghê rợn thế mà bọn người vẫn ăn ngon lành. Điều ấy cho thấy cái tâm của bọn người còn ghê rợn hơn. Cái ý niệm hư huyễn vô căn cứ của bọn thực khách là ăn thú rừng sẽ bổ thận, cường dương ấy đã haị không biết bao nhiêu loài. Thật ngu muội, không khoa học, bằng chứng là những người không ăn thịt thú rừng, thậm chí không ăn bất cứ thịt gì vẫn khoẻ mạnh, thậm chí còn khoẻ mạnh hơn, an lạc hơn! 

 Thế rồi một ngày kia, đột nhiên từ thương xá ấy xuất hiện một căn bệnh lạ. Những kẻ mắc phải đều đau nhức, ho khan, phổi hư, không thở nổi và chết trong đau đớn. Căn bệnh nhanh chóng lan tràn khắp thành phố, rồi nó theo những dân di trú, du lịch, ngoại kiều… lan ra toàn thế giới. Bấy giờ loài người kinh sợ, lớp lớp người chết, vô số người nhiễm bệnh. Căn bệnh quái lạ không có thuốc ngừa hay thuốc chữa vì nó mới lạ quá. Căn bệnh lây lan không biên giới, không giai cấp, không phân cao thấp, từ thường dân cho đến quan chức, từ nghèo hèn cho đến giàu sang, không phân biệt nam - nữ, đông - tây… ai ai cũng hoảng kinh, tự bịt miệng, bịt mũi mình laị, tự mình tránh xa loài người hoặc bị buộc phải cách xa loài người. Lịch sử loài người chưa bao giờ có hiện tượng quái đản lạ lùng như thế. Loài người phải trốn trong nhà như những con thú ẩn trong hang. Phố phường vắng hoe, các hoạt động sản xuất, kinh doanh, văn hoá, thể thao, tôn giáo…hủy bỏ. Các khoa học gia, bác sĩ lao vào chế thuốc nhưng vẫn chưa thấy bất cứ tia sáng nào ở cuối đường hầm. Xã hội loài người ngưng trệ chỉ chừng vài tuần, vậy mà bầu khí quyển ở các thành phố trong trẻo trở laị, khói bụi ô nhiễm giảm thiểu, đến độ đứng ở xứ Ấn có thể nhìn thấy Hy Mã Lạp Sơn (điều mà trước kia không thể, vì ô nhiễm quá nặng), tầng ozone phục hồi laị một cách kỳ diệu, những con kênh trong xanh, đàn cá heo từ đaị dương vào sâu tận thành viene, các loài rùa vích lên bờ đẻ trứng mà không sợ loài người, thú rừng xuống đường hoặc tràn vào những trấn nhỏ gần rừng. Thiên nhiên dường như lấy laị những nét hoang sơ của buổi ban đầu. Bấy giờ loài người sợ đụng thú hoang, sợ thịt thú rừng. Loài người sợ loài người luôn, không bắt tay nhau, né nhau, thương nhau cũng không laị gần, không cả xã giao. Loài người kỵ kẻ đối diện như giặc, như kẻ mang mầm bệnh, người với người nhìn nhau và ai cũng nghĩ kẻ kia là quái vật ôn dịch. Loài người kỵ nhau, đổ lỗi cho nhau, trách móc nhau và tăng tốc độ chơi xỏ nhau. Giữa lúc ôn dịch vậy, lẽ ra phải tỉnh, đằng này có kẻ còn lợi dụng ôn dịch dàn quân ra để giành thế bá chủ, cướp biển, cướp đảo, lập quận… Ôn dịch vốn nguy hiểm vậy mà cái tư tưởng ôn dịch kia còn nguy hiểm hơn. 

 Các vị thần dường như cũng im lặng, không bảo cho loài người biết là nạn ôn dịch ấy từ súp dơi, từ thú rừng, chợ cá hay từ phòng thí nghiệm sinh học mà ra. Riêng hồn muông thú và các cây rừng chết oan mạng thì phần nào hả hê vì đã rửa được một chút oán hận.

 Loài người vẫn vật vã trong cơn dịch, loay hoay chế thuốc, tung ra tin giả, thuyết âm mưu… Loài người đang gạt nhau để mưu lợi, nạn ôn dịch kia mới xảy ra nhưng rồi sẽ qua. Riêng cái tư tưởng ôn dịch bành trướng muốn làm bá chủ kia thì ngàn đời nay vẫn còn, chẳng những không thuyên giảm mà càng ngày càng ngông cuồng hơn.


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 052020

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
Vuốt lại tấm khăn trải giường cho thẳng. Xoay chiếc gối cho ngay ngắn. Xong xuôi, hắn đứng thẳng người, nhìn chiếc giường kê sát vách tường. Có cái gì đó thật mảnh, như sợi chỉ, xuyên qua trái tim. Hắn vuốt nhẹ bàn tay lên mặt nệm. Cảm giác tê tê bám lên những đầu ngón tay. Nệm giường thẳng thớm, nhưng vết trũng chỗ nằm của một thân thể mềm mại vẫn hiện rõ trong trí. Hắn nuốt nước bọt, nhìn qua cái bàn nhỏ phía đầu giường. Một cuốn sách nằm ngay ngắn trên mặt bàn. Một tờ giấy cài phía trong đánh dấu chỗ đang đọc. Hắn xoay cuốn sách xem cái tựa. Tác phẩm dịch sang tiếng Việt của một nhà văn Pháp. Cái va li màu hồng nằm sát vách tường, phía chân giường. Hắn hít không khí căn phòng vào đầy lồng ngực. Thoáng hương lạ dịu dàng lan man khứu giác. Mùi hương rất quen, như mùi hương của tóc.
Biết bao nhiêu bài viết về Mẹ, công ơn sinh thành, hy sinh của người Mẹ vào ngày lễ Mẹ, nhưng hôm nay là ngày Father’s Day, ngày của CHA, tôi tìm mãi chỉ được một vài bài đếm trên đầu ngón tay thôi. Tại sao vậy?
Hôm nay giống như một ngày tựu trường. Đơn giản, vắng một thời gian không ngồi ở lớp học, nay trở lại, thế là tựu trường. Ngày còn bé, mỗi lần nghỉ hè xong, lên lớp mới, trong lòng vừa hồi hộp vừa vui sướng. Có bao nhiêu chuyện để dành chờ gặp bạn là kể tíu tít. Nhưng bên cạnh đó là nỗi lo khi sắp gặp các thầy cô mới… Mỗi năm đều có ngày tựu trường như vậy, nói chung là khá giống nhau, trong đời học sinh. Nhưng cái ngày tựu trường này thật quá khác. Người ta nhìn nhau không dám cười, không dám chào hỏi. Sự e dè này, dường như mỗi người đã được tập luyện qua một năm. Một năm “học chính trị” trong cái gọi là hội trường mà tiền thân là cái rạp hát.
Cái tên Michelin không xa lạ gì với chúng ta. Vỏ lốp chiếc xe tôi đang dùng cũng mang tên Michelin. Sao hai thứ chẳng có liên quan chi lại trùng tên. Nếu tôi nói chúng tuy hai mà một chắc mọi người sẽ ngây người tưởng tôi… phiếm.
Phi là một người bạn đạt được những điều trong đời mà biết bao người không có. Là một tấm gương sống sao cho ra sống để chết đi không có gì hối tiếc. Là một niềm hy vọng cho sự tử tế vốn ngày càng trở nên xa xỉ ở nước Mỹ mà tôi đang tiếp tục sống.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.