Hôm nay,  

Ôn Dịch

21/05/202014:40:00(Xem: 4820)

 


 Cả ngàn cây im phăng phắc, không một chiếc lá lay, không một cơn gió thoảng. Khu rừng trầm lắng đến độ có thể nghe được âm thanh tăng trưởng của từng thớ gỗ trong thân cây, cái không khí lặng mà căng như dây đàn, nó dồn nén tưởng chừng chỉ cần một tác động nhỏ cũng có thể làm bùng lên, nổ tung ra. Toàn bộ cây rừng đang lo lắng cho số phận của mình, dù biết rằng có lo sợ cũng không giải quyết được gì, nhưng một khi đứng trước cái chết gần kề thì không thể nào không lo. Các loài thú rừng, chim muông, sâu bọ…cũng hoang mang tột độ. 

 Cụ thông già vài trăm tuổi nhưng thân hình rắn rỏi vươn thẳng lên trên không, mái đầu xanh thẫm, thân rất ít cành nhánh. Cụ đã trải qua bao nhiêu bão tố, tuyết băng… mùa đông có lạnh thế nào đi nữa cũng không thể làm suy sắc xanh của cụ. Cụ là chứng nhân biết bao chuyện buồn vui của khu rừng này và thế sự của loài người quanh đây. Cụ cất tiếng ồm ồm:

 - Kiếp nạn chúng ta sắp đến rồi, bọn người sẽ đến chặt phá, ủi trọc khu rừng này. Bọn họ dự định xây một thương xá mới ở đây. Bọn họ thật ích kỷ và lãng phí! những thương xá cũ vẫn còn bền vững nhưng quyết bỏ đi để xây cái mới. Bọn họ sống nhờ dưỡng khí của chúng ta cung cấp, điều hoà chúng ta làm, chắn bão chúng ta lo, ngăn xói mòn lũ lụt chúng ta liều thân…Ấy vậy mà bọn họ laị đi haị chúng ta không thương tiếc. Bọn họ thậm vô minh, haị chúng ta cũng tức là haị chính bản thân họ, con cháu họ. 

 Bấy giờ khu rừng mới lào xào, có tiếng thút thít, tiếng thở dài, thậm chí có tiếng phẫn nộ. Bọn cát đằng, cát căn, tường vi, đậu biếc, chùm ớt… quấn quýt nương nhờ những thân chủ quanh đấy rên rỉ:

 - Chúng ta chết ư? làm sao bây giờ? Chúng tôi không muốn chết! 

 Những hạng tầm trung như: hoàng điệp, xoan, táo nhơn, dogwood… thì run rẩy:

 - Kiếp nạn thật rồi! bọn ta dâng hoa quả cho đời, thế mà bây giờ bị haị, thật không công bằng tí nào! 

 Đám cây bụi: cùm rụm, dú dẻ, mận gai, mân xôi, việt quất…than vãn ỉ ôi:

 - Chúng mình thấp cổ bé họng, sống chết bởi tay người. Chúng mình góp cho đời quả ăn, thuốc uống nhưng giờ người đối xử không ra làm sao cả! 

 Riêng đám cỏ gấu, cỏ cú, mắc cỡ, cỏ may…chẳng biết vì đần độn, vô tư lự hay nâng bi mà trơ tráo tuyên bố:

 - Chuyện lớn có người lo, chúng ta cứ sống mà hưởng là được rồi, đừng nghe lời xúi của bọn phá đám! 

 Đặc biệt họ nhà dương xỉ, tuy thân thảo nhỏ bé, mền yếu nhưng laị có sức sống mãnh liệt phi thường. Dương xỉ vẫn thường tự hào:

 - Tổ tiên nhà tớ có mặt ở thế gian này từ kỷ Jura, tuổi ngang bọn khủng long, bọn ấy và bao loài khác bị tuyệt chủng thế mà họ nhà tớ vẫn còn đến hôm nay. Bọn tớ là nhân chứng sống, là hoá thạch sống của loài thực vật. Họ nhà tớ đã từng trải vô số kiếp nạn: động đất, cháy rừng, đất lở, lũ quét, bão tố, băng hà… nhưng vượt qua cả! 

 Lời thì thầm của dương xỉ như làn sóng âm vang trong hư không, muôn loài đều cho là phải, phần nào trấn an cây rừng và muông thú. Cây bạch quả cũng là cư dân lâu đời nhất nhì của khu rừng, danh phận cũng thuộc hàng có số má. Thân cao to, chỉ thua loài cù tùng, tuyết tùng mà thôi. Tuy thân dáng dấp trượng phu nhưng tâm hồn như cô gái, mỗi mùa thu là vàng rực cả lên, lấp lánh sắc màu, tung vào không gian muôn triệu chiếc lá rực rỡ như bướm bay. Lá bạch quả làm sáng cả khu rừng, thảm lá đẹp như người ta rắc cánh hoa, rắc kim tuyến trên sàn catwalk của những cô đào xi nê. Bạch quả vượt trên tán rừng, nói riêng với cụ thông:

 - Kiếp nạn này thật nghiêm trọng, bọn chúng ta chết đã đành, chỉ e con cháu tuyệt diệt, vô số thú rừng mất giống, muôn loài thê thảm thay. Nếu ngày xưa cháy rừng, động đất, bão tố… chỉ ảnh hưởng một khu vực nào đó thôi, còn kiếp nạn này thì tất cả cùng chung số phận. Bọn người kéo đến với máy móc cơ khí và phương tiện hiện đaị thì không một loài nào có thể thoát. Bọn người dùng hoá chất khai quang, chất sinh hoá… thì tất cả chết sạch! cậu thấy đấy, hàng triệu ha rừng đã cạo sạch, đất đai sa mạc hoá, hàng ngàn kênh rạch bị lấp, nhiều ngàn con sông bị bức tử, nhiễm độc, đaị dương nhiễm độc, rác thải nhựa ngập biển… những con cá voi vốn là cư dân khổng lồ của hành tinh này cũng chết oan vì nuốt nhựa. Cái chết đang đe dọa muôn loài! Bọn người chỉ là một phần nhỏ cùng cộng sinh ở thế gian này, nhưng lòng tham, sự ích kỷ, tàn độc đang ra tay haị muôn loài, bức tử mẹ thiên nhiên. 

 Những cây dầu nghe lọt lời tâm sự của bạch quả, lòng cũng sầu vô hạn, thả những quả dầu xoay tít trong không trung để cầu nguyện:

 - Mong cho kiếp nạn này sớm vượt qua, mong sao loài người tỉnh thức, ngừng bức haị thiên nhiên. Họ phải hiểu rằng: Bức haị thiên nhiên chính là tự haị mình, tự đầu độc chính mình! 

 Cây chò chỉ, cây sao, cây sồi… chụm đầu bàn bạc:

 - Chúng ta phải có kiến nghị, cư dân của khu rừng này cũng như những nơi khác ( dù chưa bị haị) cũng phải lên tiếng! nếu im lặng thì hôm nay chúng tôi chết, ngày mai sẽ đến lượt các bạn!

 Gió nổi lên ầm ầm, cả khu rừng lay động, gió lan từ rừng này sang rừng khác, gió vượt qua triền đồi, gió thổi lên non. Muôn loài hưởng ứng lời kêu gọi sinh tử thống thiết. Cây tuyết tùng hiệu triệu:

 - Hỡi cư dân thảo mộc! loài thân gỗ, thân thảo; loài lá kép, lá đơn; loài thường niên, loài mùa vụ; loài đứng thẳng, loài leo quấn; loài thân ngầm, thân lộ. Hỡi cư dân muông thú! Loài có thân chạy cánh bay, loài có chân đi vây bơi, loài trên cạn dưới nước, loài có da có lông, có vảy, loài hai chân bốn chân hoặc nhiều chân; loài sống thọ sống ngắn…Tất cả chúng ta cùng cộng sinh, tương tác qua laị với nhau. Loài người cũng cùng cộng sinh nhưng ra tay tàn độc. Chúng ta chết bọn họ cũng chết, chúng ta sống bọn họ mới sống được. Chúng ta phải lên tiếng, phải hành động, bằng không thì chết tất cả! 

 Gió đưa lời tuyết tùng bay xa, bay cao khắp bốn phương. Rừng rùng rùng lay động, muông thú rền rĩ, biển dâng sóng lớn, đất chấn động trong lòng làm làn sóng toả khắp mặt địa cầu. Các vị thần nương cây cao bóng cả dùng thần lực truyền lời kêu của tuyết tùng vang khắp cõi người ta. Vô số các vị thần rừng, thần núi, thần sông, thần biển…cùng trợ lực cho lời tuyết tùng mạnh mẽ hơn, thẩm thấu hơn vào tâm can của bọn người. Các vị thần hứa:



 - Chúng tôi sẽ hộ vệ những người biết bảo vệ thiên nhiên,  tìm mọi cách cảnh tỉnh người mê muội tàn độc. Kiếp nạn này tuy nguy hiểm nhưng có thể khắc phục được, chỉ cần loài người giảm bớt tham, bớt mê muội và tàn độc thì tất cả sẽ được cứu! 

 Cây bồ đề nói chậm rãi nhưng rõ ràng rành mạch từng lời: 

 - Loài người vô minh đã lâu, cái bản tánh của họ bị mê mờ vì tiền bạc, danh vọng, sắc dục…Cái tâm họ vốn như tấm kiếng, nhưng vì buị đất, sắc màu phủ lên, giờ phải lau bụi và sắc màu đi thì họ sẽ tỉnh ra thôi! Tuy nhiên nói thì dễ nhưng làm thì khó lắm, cần phải kiên trì và thời gian dài. Một khi loài người tỉnh ra thì họ sẽ an, họ an thì muôn loài mới an theo. 

 Thần cai quản thú rừng buồn rầu:

 - Cư dân chúng tôi cai quản ngày càng cạn kiệt, nhiều loài bị  tuyệt chủng và nhiều loài nữa đang bị đe dọa. Những con thú vô tội là nạn nhân của con người, họ tận dụng mọi cách để bắt và sát haị. Ngày xưa với bẫy thú thô sơ thì không sao, ngày nay với phương tiện khoa học kỹ thuật cao, nào là súng, lưới, âm thanh giả, sóng âm nhân tạo…họ tận diệt không thương tiếc. Các con vật trên không, trong rừng, dưới nước đều bắt cho kỳ hết. Họ ăn thịt, lấy da, lấy lông, lấy vuốt, lấy ngà, lấy xương…trăm ngàn cách giết tàn bạo để ăn thịt, uống máu, nấu cao, giết để làm thú tiêu khiển… Những con thú vô tội, ngày đêm sống trong sự sợ hãi. Rừng núi cào phá, sông ngăn, biển lấp, bức haị mẹ thiên nhiên như thế thì sớm muộn gì cũng phải nhận lấy hậu quả thảm khốc!  

 Thế rồi khu rừng san phẳng, toàn bộ cây rừng triệt hạ, muông thú chết, chỉ một số ít vượt thoát sang những khu rừng khác. Nơi ấy mọc lên một thương xá đồ sộ, người vào ra mua bán ì xèo , bao nhiêu của cải, quần áo, phấn son, đồ đạc trưng bày lềnh khênh. Trong dãy hàng ăn  bao nhiêu xác thú rừng treo lủng lẳng: thịt hưu, nai, hoẵng, lợn lòi…trong những cái lồng sắt bọn chồn, thỏ, nhím, rắn… ngơ ngáo, đau khổ hoảng loạn trong cơn sợ hãi hùng. Chúng gào lên ư ử, chạy tới lui để tìm đường ra  trông thật đau lòng. Những nhà hàng đặc sản bày bán thân xác của cư dân rừng nào là: lẩu pín cọp, tay gấu, tim rắn, óc khỉ, súp dơi, bào thai chuột, thậm chí nhau thai của chính bọn người. Hồn các con thú căm hờn rền rĩ từ ngoài chợ cho đến bếp nấu và quanh bàn ăn của các thực khách. Chúng kêu đền mạng, chúng đòi trả oán, chúng gào khóc phải trả laị máu thịt của chúng…Tiếc là bọn đầu bếp và đám thực khách không nghe thấy, không hay biết chi cả. Cuộc sống kim tiền càng thịnh thì các con thú càng chết thảm, xác chúng sẽ chế biến thành những món ăn độc nhất cho bọn người nhiều tiền ít đức, thừa kim ngân thiếu tình thương, dư của cải thiếu lương tâm. Bọn họ tin rằng: ăn thú rừng với những cách chế biến tàn độc ấy sẽ cường dương, bổ thận, sẽ sống lâu để hưởng thụ… Loài dơi vốn chẳng haị ai, laị có ích cho bọn người. Dơi ăn muỗi mòng, côn trùng  thế mà chết thảm trong bát súp, xác chúng trong bát súp trông ghê rợn thế mà bọn người vẫn ăn ngon lành. Điều ấy cho thấy cái tâm của bọn người còn ghê rợn hơn. Cái ý niệm hư huyễn vô căn cứ của bọn thực khách là ăn thú rừng sẽ bổ thận, cường dương ấy đã haị không biết bao nhiêu loài. Thật ngu muội, không khoa học, bằng chứng là những người không ăn thịt thú rừng, thậm chí không ăn bất cứ thịt gì vẫn khoẻ mạnh, thậm chí còn khoẻ mạnh hơn, an lạc hơn! 

 Thế rồi một ngày kia, đột nhiên từ thương xá ấy xuất hiện một căn bệnh lạ. Những kẻ mắc phải đều đau nhức, ho khan, phổi hư, không thở nổi và chết trong đau đớn. Căn bệnh nhanh chóng lan tràn khắp thành phố, rồi nó theo những dân di trú, du lịch, ngoại kiều… lan ra toàn thế giới. Bấy giờ loài người kinh sợ, lớp lớp người chết, vô số người nhiễm bệnh. Căn bệnh quái lạ không có thuốc ngừa hay thuốc chữa vì nó mới lạ quá. Căn bệnh lây lan không biên giới, không giai cấp, không phân cao thấp, từ thường dân cho đến quan chức, từ nghèo hèn cho đến giàu sang, không phân biệt nam - nữ, đông - tây… ai ai cũng hoảng kinh, tự bịt miệng, bịt mũi mình laị, tự mình tránh xa loài người hoặc bị buộc phải cách xa loài người. Lịch sử loài người chưa bao giờ có hiện tượng quái đản lạ lùng như thế. Loài người phải trốn trong nhà như những con thú ẩn trong hang. Phố phường vắng hoe, các hoạt động sản xuất, kinh doanh, văn hoá, thể thao, tôn giáo…hủy bỏ. Các khoa học gia, bác sĩ lao vào chế thuốc nhưng vẫn chưa thấy bất cứ tia sáng nào ở cuối đường hầm. Xã hội loài người ngưng trệ chỉ chừng vài tuần, vậy mà bầu khí quyển ở các thành phố trong trẻo trở laị, khói bụi ô nhiễm giảm thiểu, đến độ đứng ở xứ Ấn có thể nhìn thấy Hy Mã Lạp Sơn (điều mà trước kia không thể, vì ô nhiễm quá nặng), tầng ozone phục hồi laị một cách kỳ diệu, những con kênh trong xanh, đàn cá heo từ đaị dương vào sâu tận thành viene, các loài rùa vích lên bờ đẻ trứng mà không sợ loài người, thú rừng xuống đường hoặc tràn vào những trấn nhỏ gần rừng. Thiên nhiên dường như lấy laị những nét hoang sơ của buổi ban đầu. Bấy giờ loài người sợ đụng thú hoang, sợ thịt thú rừng. Loài người sợ loài người luôn, không bắt tay nhau, né nhau, thương nhau cũng không laị gần, không cả xã giao. Loài người kỵ kẻ đối diện như giặc, như kẻ mang mầm bệnh, người với người nhìn nhau và ai cũng nghĩ kẻ kia là quái vật ôn dịch. Loài người kỵ nhau, đổ lỗi cho nhau, trách móc nhau và tăng tốc độ chơi xỏ nhau. Giữa lúc ôn dịch vậy, lẽ ra phải tỉnh, đằng này có kẻ còn lợi dụng ôn dịch dàn quân ra để giành thế bá chủ, cướp biển, cướp đảo, lập quận… Ôn dịch vốn nguy hiểm vậy mà cái tư tưởng ôn dịch kia còn nguy hiểm hơn. 

 Các vị thần dường như cũng im lặng, không bảo cho loài người biết là nạn ôn dịch ấy từ súp dơi, từ thú rừng, chợ cá hay từ phòng thí nghiệm sinh học mà ra. Riêng hồn muông thú và các cây rừng chết oan mạng thì phần nào hả hê vì đã rửa được một chút oán hận.

 Loài người vẫn vật vã trong cơn dịch, loay hoay chế thuốc, tung ra tin giả, thuyết âm mưu… Loài người đang gạt nhau để mưu lợi, nạn ôn dịch kia mới xảy ra nhưng rồi sẽ qua. Riêng cái tư tưởng ôn dịch bành trướng muốn làm bá chủ kia thì ngàn đời nay vẫn còn, chẳng những không thuyên giảm mà càng ngày càng ngông cuồng hơn.


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 052020

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
Cuối tháng Ba, những cơn gió nóng tràn về thành phố. Một hai trận mưa lạc loài đến sớm rồi thôi. Không khí ngột ngạt. Mùi đất nồng khó chịu. Như một cô gái uể oải trong cơn bệnh, thành phố trông mệt mỏi, rạc rời. Đoan đi vào Câu lạc bộ của trường. Bình thường, cứ đến thứ Sáu là không khí chuẩn bị cho chiều văn nghệ thứ Bảy lại nhộn nhịp. Nhưng hôm nay, như có một cái gì kéo mọi thứ chùng xuống. Chị Thuận, người phụ trách Câu lạc bộ, mỉm cười khi thấy Đoan, nhưng là một nụ cười kém tươi. Chị vẫn câu chào hỏi thường lệ: “Em uống gì không?” “Dạ, chị cho em nước chanh.” Chị Thuận pha ly nước chanh đặc biệt, nóng, ít đường, mang đến để trước mặt Đoan, và kéo ghế ngồi xuống bên Đoan. Hình như không có gì để bắt chuyện, chị Thuận nhìn ra sân, nói nhỏ:
Tôi khép cánh cửa phòng ngủ, rón rén bước ra, sợ gây tiếng động làm thằng cháu nội lại giật mình thức giấc; thằng bé đã mười tháng tuổi, biết làm đủ thứ trò như con khỉ con, chiếc mũi bé xíu của nó chun lại, đôi môi dầy cong lên, mỗi khi bà nội bảo nó làm xấu, thật dễ thương, canh nó hơi mệt vì phải chơi cho nó đừng chán, lèo nhèo, nhưng chơi nhiều thì sức bà nội có hạn, làm sao chạy theo nó cả ngày được!
Những cái mặt hướng về phía trước. Những cái đầu hơi cúi, những cái lưng hơi còng có lẽ bởi sức nặng của chiếc ba lô đeo sau lưng, hay tại - nói một cách màu mè, văn vẻ, đầy giả dối là - gánh nặng của đời sống. Trước mặt tối đen. Bên phải là những cánh cửa cuộn bằng tôn đóng kín. Những cánh cửa lạnh lùng, vô cảm; lầm lì từ khước, âm thầm xua đuổi. Dưới chân là nền xi măng. Cứng và lạnh. Không thể là nơi tạm dừng chân, nghỉ mệt. Sâu vào phía sát vách là nền lót những viên gạch vuông. Không một cọng rác. Không một bóng chó hoang, mèo lạc. Không cả những hình hài vô gia cư bó gối vẩn vơ nhìn nhân gian qua lại.
Đức hạnh cao quý thể hiện thành tâm vô phân biệt. Tâm vô phân biệt tạo thành một sự bình đẳng tuyệt đối trong giáo pháp của đức phật. Giáo pháp thâm sâu vi diệu của Như Lai thì không phải ai cũng hiểu hết, cũng ngộ được điều đó đa phần các vị đại trí thấu đạt. Còn lòng từ bi của phật thì lan tỏa vô phân biệt như ánh sáng mặt trời soi sáng khắp nơi nơi, như mưa rơi tắm mát đại ngàn. Những lời giảng dậy trên đây được dẫn chứng nhiều và rõ nhứt là ở phật giáo Tây Tạng.
Anh Hai của tôi, sau chuyến vượt biên thất bại, bị giam ở nhà tù Bình Đại Bến Tre chín tháng, khi trở lại trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ mới biết đã bị cắt hộ khẩu, mất việc làm, bèn quay về Sài Gòn sống tạm với gia đình, chờ cơ hội vượt biên tiếp theo. Một hôm, anh bị cơn sốt rét tái phát hành hạ, (hậu quả của những ngày trong trại giam), cần phải đến bệnh viện chữa trị, nhưng hộ khẩu không có, anh bèn mượn cái Sổ Sức Khỏe của thằng cháu (con bà chị họ ở kế bên nhà), để đi khám bệnh
Năm đó, tôi qua Arlington,Texas thăm gia đình, rồi ghé Dallas thăm người hàng xóm cũ thân thiết từ khi còn ở Việt Nam . Chú Thím ấy đónvợ chồng tôi nồng hậu như mọi khi, bữa ăn đặc sản món Huế như tôi yêu cầu, sau đó kéo nhau ra phòng khách ăn bánh uống trà . Rồi Thím gọi cháu ngoại: - Thiên Ân ơi, ra đây ca hát cho hai bác Canada nghe đi con.-Cô bé hai, ba tuổi tung tăng ngoan ngoãn khoanh tay chào chúng tôi, rồi bạo dạn chạy ra giữa phòng, tay giả bộ cầm micro phone, rồi nhún nhảy tự nhiên hát một bài hát Tiếng Việt thật rõ ràng .
Ngày xưa rất xa xưa, ở vùng quê thôn dã, người dân sống giản dị, đơn sơ, mộc mạc; người ta trồng tỉa những vườn rau cải, vườn ngô, vườn cà… lấy hoa lợi để sống. Thường thường có chim chóc kiếm ăn đến phá phách, dãi dãi, mổ mổ những hạt mới ươm trồng hay những nụ hoa mới ra, chúng ăn, với con người trồng tỉa lấy hoa lợi là chúng nghịch ngợm và phá hoại, ăn khín. Mới đầu chúng đến một vài con, sau rủ nhau đến nhiều hơn, cả nhà cả đàn chim chóc… và người gia chủ trồng tỉa phải tìm cách bảo vệ hoa màu của họ, nguồn sống của họ.
Người đàn bà với tay kéo tấm bạt vải phủ hai mặt bàn thấp và lổng chổng mấy cái ghế úp lại phía trên. Buổi chiều tháng chín nhả vài vệt nắng vàng sậm trên mấy lùm cây mắm khẳng khiu mọc hoang dại bên hông. Căn nhà chia làm hai, phía trên mặt lộ làm quán lộ thiên, phần còn lại là căn nhà sàn nằm doi ra mặt bờ kinh Cụt. Mặt quán cũng được biến dạng mỗi ngày. Sáng có cà-phê, hàng xôi và thuốc lá. Buổi trưa là quán cơm bình dân cho đám khách hàng chợ Giữa, đến từ các huyện xa xôi. Tối đến, chỉ còn vỏn vẹn thùng thuốc lá bán lẻ. Tất cả sinh hoạt biến dạng dưới bàn tay của người đàn bà và đứa con gái nhỏ. Người ta nhìn thấy trong đôi mắt nâu đen của hai má con in đậm hình ảnh căn nhà chật chội, bày biện lượm thượm những ghế bàn buồn bã, lạnh lùng. Bóng dáng người đàn bà và bếp lửa áo cơm, vẫn không đủ vẽ lên khung cảnh đầm ấm của một gia đình. Đứa con gái mười bốn tuổi, giống má, lầm lũi như chiếc bóng trong nhịp đời hờ hững.
Ai cũng có những hoài niệm mang theo cả cuộc đời, hoài niệm ngày càng nhiều theo tuổi tác dâng lên, người may mắn có nhiều hoài niệm vui hơn buồn để khi chợt nhớ thấy lòng vui vui. Ai cũng có những ước mơ thầm kín để khi hoài niệm thấy mình còn là người, giả như ước mơ cho người yêu cũ có cuộc sống hạnh phúc. Điều ấy nói ra ai tin nên xếp vào ước mơ thầm kín, còn những ước mơ nói ra được chỉ là hoang tưởng nhất thời như thấy chiếc xe đẹp lướt qua, ước gì mình có chiếc xe ấy. Nhưng giả sử ngày mai trúng số, có tiền mua chiếc xe ấy thì ước mơ nói ra được hôm qua đã thay đổi thành chiếc xe mắc tiền hơn nữa và đẹp hơn nữa vì là chiếc xe của hôm nay, của người mới trúng số. Khác với ước mơ thầm kính vui buồn riêng mang coi vậy mà theo ta như hình với bóng, càng thầm kín càng bền lâu sau nỗi buồn chia xa đã gặm nhấm tâm can theo tháng ngày, nghe tin người xưa không hạnh phúc thì nỗi buồn tăng lên gấp đôi nhưng nói ra ai tin trong trời đất bao la này…
Truyện HOÀNG CHÍNH - Thứ Mùa Màng Không Có Thật


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.