Hôm nay,  

Mối Tình Đầu Của Doãn

24/07/202009:10:00(Xem: 4362)

   

“Em gầy như liễu trong thơ cổ

Anh bỏ truòng thi lúc thịnh Đường”

Nguyên Sa

 

Mỗi lần nhớ lại NhaTrang, tôi nhớ con đường Alexandre De Rhodes đượm mùi hoa sứ, có bóng mát và  tiếng sóng rì rào của biển, con đường đưa tôi đến trường Kim Yến hàng ngày. Mỗi lần nhớ lại NhaTrang, tôi nhớ Doãn, người bạn cùng lớp, một gã thư sinh đam mê văn chương, triết học và âm nhạc. Doãn mang đôi kính cận dày cộm, một thoáng Doãn trông giống Jean Paul Satre. Doãn rất đam mê đàn dương cầm và một chút tham lam tình yêu...

Mỗi lần nhớ lai NhaTrang, tôi nhớ Phương Dung, người con gái đẹp thôn Phú Vinh ngọai ô phía Tây thành phố NhaTrang, người nữ sinh trường Kim Yến có dáng đi e ấp, mái tóc frisé, thả lơi lã trên hai bờ vai, có đôi mắt đen lánh đẹp và buồn. Phương Dung vừa khiêm tốn vừa sang trọng, quí phái nhưng không hờ hửng với thế giới chung quanh mình. Phương Dung đã làm điêu đứng biết bao chàng trai của thành phố biển này trong đó có Doãn. Năm 1957, Doãn yêu Phương Dung tha thiết và chỉ mong một lần cầm được tay nàng, nhưng vẫn bị Phương Dung từ chối. Doãn biến thành gã si tình. Sau này mỗi khi nhớ lại Phương Dung, Doãn ôm lấy cây đàn dương cầm và thả hồn minh trong những tình khúc cổ điển Tây phương Romance của Robert Schuman, Eva Maria của Franz Schubert. Doãn thường ngợi ca nhan sắc của Phương Dung qua hai câu thơ của nhà thơ Nguyên Sa: “Em gầy như liễu trong thơ cổ/ Anh bỏ trường thi lúc thịnh Đường.”

     Những năm năm mươi của thế kỷ trước, biển NhaTrang, phố Đôc Lâp, trường Kim Yến, trường Võ Tánh, trường bán công Lê Quí Đôn, là những khung trời kỷ niệm đẹp như một bài thơ. Nhóm chúng tôi năm đứa: Đạo, gốc Huế, Định, gốc Quảng Trị, Thuận, người Ninh Hòa, và Doãn, người Nha Trang, còn tôi là dân Phan Rang, chúng tôi cứ nhỡn nhơ đi học, đi dạo biển và rủ nhau đi cinéma cuối tuần. Đôi khi chúng tôi nghe tiếng Đại bác hay nhìn thấy hỏa châu thắp sáng một góc trời, chúng tôi cứ yên tâm đó là những cuộc tâp trận của Trung tâm huấn luyên sỹ quan bộ binh ở Đồng Đế, và chúng tôi quên đi đất nước chúng ta vẫn còn trong tinh trạng chiến tranh. Ở Nha Trang còn có Trung tâm Huấn luyện Sĩ quan Phi Công của Không quân và Trường đào tạo Sỹ quan Hải quân ở Cầu Đá, dọc theo bờ biển phía Nam của thành phố. 

     NhaTrang thuở ấy thật sự là thành phố của chiến tranh nhưng NhaTrang mang bộ mặt một thành phố của hòa bình, ổn định. Vào thời khoảng này sinh hoạt cuối tuần doc theo đai lộ Duy Tân ven biển, trên phố Đôc Lập thật là vui nhộn phong phú và đa dạng. Nhạc sỹ Văn Phụng vừa di cư vào Nam, anh thường trình diễn âm nhac ngoài trời mỗi cuối tuần trên bờ biển gần khách sạn Beau Rivage. Các trường Trung Học của NhaTrang thuở 55, 56, 57 vẫn tiếp nhận các hoc sinh: Ngoài Bắc mới di cư vào Nam trong đó có câu hoc trò Phí Ích Nghiễm của trường Bán công Lê Quí Đôn  và sau này trở thành nhà văn thành danh với bút hiệu Dương Nghiễm Mậu; và các hoc sinh từ Liên Khu V- Nam-Ngãi-Bình-Phú- vừa được giải phóng và trở thành các tỉnh của miền Nam tự do. Trong nhóm này có Nguyễn Mông Giác, hoc ban B truòng Võ Tánh, sau này là tác giả của những bộ trường thiên tiểu thuyết: Mùa Biển Động,  Sông Côn Mùa Lũ. Với tác phẩm ‘Đường Một Chiều’, Nguyễn Mộng Giác đoạt giải Nhất của cuộc thi tiểu thuyết của Trung Tâm Văn Bút Việt Nam năm 1974. Nguyễn Đức Sơn từ Phan rang ra học Trường Kim Yến, anh đã sớm phát tiết phong thái như một nhà thơ lập dị với bút hiệu Sao Trên Rừng, hồi ấy Nguyễn Đức Sơn đã sáng tác bài thơ: “Một Mình Nằm Thở Đủ Kiểu Trên Bờ Biển: “Đầu tiên tôi thở cái phào/Bao nhiêu phiền não như trào ra theo/Nín hơi tôi thở cái phèo/Bao Nhiêu Mộng ảo bay vèo hư không/Sướng nên tôi thở phập phồng/Mây bay gió thổi trời hồng muôn năm/Mai sau cái chỗ tôi nằm/Sao rơi lạnh lẽo, âm thầm biển ru..”.

Phải chăng chiến tranh đã là nỗi ám ảnh thuở ấy khiến nhà thơ Nguyễn Đức Sơn sớm thấy số phận hẩm hiu cô đơn của đời người:“Mai sau cái chỗ tôi nằm/Sao rơi lạnh lẽo âm thầm biển ru”. Khi chúng tôi lớn lên đã có chiến tranh. Chiến tranh là một phần đời của chúng tôi. Chiến tranh vây bủa quấn chặt chúng tôi như loài rắn độc quấn chặt lấy con mồi của nó.  Chúng tôi lớn theo hai cuộc chiến. Chiến tranh mang chúng tôi đi muôn phương. Chúng tôi trôi giạt trong chiến tranh...

   Năm 1962, Đạo, Định, Thuận Tốt nghiệp đại học sư phạm Toán Lý Hóa. Đi dạy Trung học được một niên khóa, cả ba đều bị động viên vào thụ huấn quân trường Thủ Đức và sau này là các sĩ quan tác chiến trên 4 vùng Chiến Thuật.  Doãn tốt nghiệp sư phạm triết và là thấy dạy triết cho các lớp 12. (Terminal). Còn tôi thì theo nghiêp Y, là bác sỹ phẫu thuật của thời chiến- (Chirurgien De Guerre).

   Năm 1960, Doãn loan báo cho nhóm chúng tôi hay là Phương Dung vừa đi lấy chồng. Doãn gọi cho chúng tôi trong giọng thản thốt và buồn. Thế mới biết trong suốt những năm qua, Doãn vẫn thầm nuôi mộng với Phương Dung.

  Chiến tranh luôn đi trước chúng tôi. Trận đánh lớn ở cấp sư đoàn-trận Ấp Bắc ở Định Tường xảy ra vào ngày 2 tháng 1 năm 1963, đã  làm vỡ tan mộng hòa binh và ổn định lâu dài của Chinh Phủ và người dân miền nam Việt Nam. Ai ai cũng xoay lưng lại chiến tranh, nhưng rồi cũng phải chịu đựng cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963, lật đổ chinh phủ Ngô Đinh Diệm. Sau cái chết của nhà yêu nước Tổng thống Ngô Đinh Diệm và người em trai của ông, chiến tranh bộc phát trở lại, thiêu đốt và tàn phá quê hương Việt Nam của chúng tôi với một tốc độ khốc liêt khủng khiếp hơn bao giờ hết....

    Nhưng thân phận người đàn bà trong chiến tranh gánh chịu muôn vàn nỗi truân chuyên. Sau khi lấy chồng được hai năm, Phương Dung sanh được một cháu gái. Có tin đồn rằng: chồng của Phương Dung là sỹ quan Không Quân, chuyên về trinh sát-Observateur-Máy bay trinh sát L.19 của anh bị bắn rơi ở Hạ Lào vào giữa năm 1961. Anh và ngưới sỹ quan phi cô đều bị lực lượng biên phòng của chính phủ Hà Nội bắt sống. Ba tháng sau chính phủ Hà Nôi đem vụ này xử công khai trên đài phát thanh cho cả nước cùng nghe. Họ tố cáo chinh phủ Mỹ đã xâm nhập biên giới của họ, ngay cả phía trên vĩ tuyến 17 và vùng Hạ Lào. Chồng Phương Dung và người bạn sĩ quan phi công mỗi người lãnh án 25 năm tù ở. Với bản án 25 năm tù ở của chồng, Phương Dung cảm thấy đời nàng hụt hẩng không biết làm sao chia sẻ sự nhọc nhằng của chồng trong lao tù cộng sản và nuôi con cho đến ngày khôn lớn trong suốt chiều dài 25 năm tới. Nhưng Phương Dung không bao giờ quay lưng lại với cái quá khứ vàng son của mình. Nàng lúc nào cũng là một mênh phụ phu nhân trong cái xã hôi chiến tranh thời đó. Nàng cố vượt lên trên số phận để có đời sống tốt đep nuôi con cho đến ngày chồng về...Nguồn tin đồn đoán cũng nhấn mạnh rằng: hoàn cảnh của Phương Dung  được xem như là quá đặc biệt. Do đó Phương Dung có được sự giúp đỡ và được ‘offered cái job’ làm thư ký tại trung tâm hỗn hợp Không lực Việt Mỹ, phi trường Không Quân-Nhatrang.  Người boss trực tiếp của Phương Dung, là một Trung tá cố vấn Mỹ cũng là vị chỉ huy trực tiếp của chồng Phuong Dung trước kia.  Phương Dung đươc ân huệ có được job này thật kín đáo ít người biết đến. Nhưng chẳng bao lâu sau, Phương Dung cũng phải hứng chịu lời ong tiếng ve “gái làm sở Mỹ”

    Sau hơn hai năm làm việc bên cạnh ông boss của nàng, Phương Dung cảm thấy mình được ông boss chăm sóc rất chu đáo. Từ đó một thiên tình sử xuất hiện giữa nàng và vị Trung tá người Mỹ. Có phải chăng họ yêu nhau vì nết trọng nhau vì tài? Một thực tế hiển nhiên vị Trung tá Mỹ vẫn còn độc thân, chưa có vợ, trong khi đó Phương Dung là ‘nhất gái một con’, người đàn bà từng trải. Lửa gần rơm có ngày cũng bén. Trước khi về nước, vị Trung tá người Mỹ ngỏ lời muốn cưới Phương Dung làm vợ. Âu đó cũng là điều Phương Dung không dám mong đợi và ước mơ nhưng thật sự nó đã đến với Phương Dung. Sau khi được sự đồng ý của cha mẹ chồng (cũ), Phương Dung gạt lệ, lên xe hoa một lần nữa. Năm 1967, Phương Dung cùng cô con gái theo chồng về Mỹ. Bao nhiêu quá khứ tình cảm, Phương Dung coi như theo nước sông trôi về dĩ vãng. Cuộc sống của Phương Dung sau năm 1960, dù cho thực hay là ảo, tất cả nói lên thân phận người đàn bà trong chiến tranh cũng nổi trôi theo vận nước, cũng bị cuốn hút theo chiến tranh...

    Từ những năm 62-63...sự quan hệ giữa bọn chúng tôi thường hay mất liên lạc với nhau. Thỉnh thoảng chúng tôi liên lạc với nhau qua Khu Bưu Chinh-KBC-chúng tôi thật sự không biết chúng tôi đang ở đâu và đang làm gì, sức khỏe và gia đình ra sao? Chúng tôi hoàn toàn con người của chiến tranh. 

    Sau biến cố Mậu Thân, và trận Khe Sanh năm 1968, bây giờ người Mỹ bắt đầu sử dụng pháo đài bay chiến lược B52, nhất là tại vùng núi rừng Trường Sơn, Đường mòn Hồ Chí Minh. Sau đó, là những trận đánh vào Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972... Hai phe bốn bên dốc toàn lực đổ quân vào những trân đánh điên cuồng đẩm máu làm áp lực cho hòa đàm Paris ở giai đoạn chót. Những trân đánh tận tình hủy diêt nhau làm rực lửa những trang báo cùng khắp thế giới, thắp sáng lương tri nhân loại.  Hầu hết các gia đình người Mỹ, mỗi chiều tối đều ngóng lên màng ảnh truyền hình, theo dõi chương trình CBS Evening News Reports hớp từng lời tường thuật của Walter Cronkite về chiến tranh Việt Nam-Vietnam-War. Những trận đánh đẩm máu xé nát trái tim của những bà mẹ nước Mỹ. Các sinh viên tại các trường đai học nhất là tại Mỹ, tại Anh, tai các nước Bắc Âu và Tây Âu, tổ chức “truồng chạy” phản đối chiến tranh diệt chủng tại Việt Nam...Trong khi đó tại Sàigòn tiếng hát Thái Thanh thảm thiết trong bài “Kỷ Vật Cho Em”, một kiệt tác phản chiến thời danh của Pham Duy, viết sau Chiến Dịch Lam Sơn-719:

 

“Anh trở về trong chiếc poncho

Anh trở về trên đôi nạng gỗ

Anh trở về tật nguyền chai đá

Anh trở về dang dỡ đời em...”    

 

Rồi cái gì phải đến, đã đến. Hiêp định Paris được ký kết hôm 27-1-năm 1973 giữa Lê Đức Thọ và Henri Kissinger nhằm chấm dứt chiến tranh tái lập hòa bình cho Viêt Nam. Sau đó là cuộc tháo chạy của Mỹ khỏi miền Nam Viêt Nam, bỏ lại sau lưng hàng triệu quân cán chính của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa trong đó có chúng tôi. Tất cả sau này là đối tượng của chính sách lao tù cải tạo tập trung vô cùng tàn bạo của của đảng cộng sản Việt Nam. Cả triệu người miền Nam tổ chức vượt biên, vượt biển, đi tìm vùng đất tự do, bất chấp mọi hiểm nguy.

    Sau chiến dịch “ Mùa Xuân Đai Thắng”, người cộng sản Việt Nam không chiu bắt tay, tâp hợp các đảng phái, các lực lượng quốc gia yêu nước khác. Năm 1964, tại một buổi họp báo quốc tế tại Hà Nội, một phóng viên ngoại quốc hỏi ông Hồ Chí Minh: “Thưa Chủ Tịch nghĩ gì khi ông Ngô Đình Diệm, kẻ thù của ông vừa bị sát hại?”. Ông Hồ Chí Minh khẳng định: “Ông Ngô Đình Diệm là nhà yêu nước, nhưng Ông yêu nước theo cách của Ông” . Tai sao, sau 30-4-1975, đảng cộng sản Viêt Nam không chịu bắt tay, tập hợp các lực lượng, các đảng phái quốc gia yêu nước khác? Tại sao người cộng sản Viêt Nam không suy nghĩ như cố Chủ tich Hồ Chí Minh của họ đã suy nghĩ. Người cộng sản Việt Nam không theo chân lịch sử, họ phản lại lòng tin của người dân miền Nam, họ phản lại tư tưởng của cố Chủ Tịch Hồ Chí Minh của họ!  Chúng tôi đã phải chấp nhận  sự phản bội trắng trợn của người công sản Viêt Nam. Mặc đầu thế chúng tôi vẫn vượt lên trên người công sản với niềm tin vào tinh thần đoàn kết quốc gia của dân tôc.

 

    Tháng Tư năm 1979 sau khi mang cả gia đình vươt biển bằng thuyền, tôi và gia đình định cư tai Mỹ vào đầu năm 1980. Sau khi định cư ở Mỹ, việc đầu tiên là tôi cố tìm lại ban bè, ai còn ai mất? Nhưng tôi hoàn không biết Đạo, Định, Thuân và Doãn hiện giờ ra sao? Mãi đến năm 2010, tôi cộng tác với báo Vietnam Daily News. Dưới mỗi tựa đề bài viết tôi có ghi chú: Thân gửi các bạn Phương Dung (Phú Vinh) Thu Nguyệt (phố Đọc Lâp) Mông Vân (Hà Dừa-Xóm Đạo), Phạm Hữu Đạo, Nguyễn thành Định, Lê Đức Thuân và các cụu hoc sinh Trường Kim Yến Nhatrang. Chúng ta thất lạc nhau trên 30 năm trong màu khói lửa chiến tranh. Các bạn còn sống? Xin điện thư về [email protected],  Cám Ơn). (*)

Hai tuần sau đó được Doãn hồi âm. Doãn cho tôi hay Doãn và gia đình được đưa đến Guam vào ngày 24-4-1975, và sau đó Doãn và gia đình đinh cư tại California. Hiên giờ Doãn vẫn chưa được tin tức gì về Phương Dung, Đạo, Định, Thuận sống chết ra sao? Doãn rất lo họ có thể mất tích trên Biển Đông... 

Một tháng sau đó tôi nhân được Email của Thuận, tôi liền tải đến cho Doãn. Thuận cho chúng tôi hay, hiện tại Thuận và gia đình định cư tai Pháp từ năm 1980. Thuận cũng cho chúng tôi hay, Đạo và Định vẫn còn kẹt ở Việt Nam. Thế là sau 30-4-75 trong hàng ngũ anh em của chúng tôi có kẻ đã vượt thoát lao tù công sản trở thành người tỵ nạn, có kẻ bị kẹt lại đành chọn quê hương làm chốn lưu đày.... 

 

  Bây giờ là đầu tháng 5 năm 2019, mùa xuân đang nở rộ ở California. Doăn đã là một ông già tuổi vừa ngoài 83. Doãn đã nhiều lần bị stroke, hiện phải ngồi xe lăn. Tuy nhiên tâm hồn Doãn vẫn còn nhạy cảm với vẽ đẹp nét buồn khi nắng sớm, lúc mưa chiều. Tiếng đàn dương cầm của Doãn trĩu nặng màu thời gian, hòa lẫn với tiếng lòng nhớ quê hương của kẻ lưu vong luôn vang vọng niềm mơ ước “Trở Về Mái Nhà Xưa -Come Back to Sorrento...”.

     Vào buổi tối hôm ấy, tựa mình vào cây đàn Piano, Doãn đề cập đến tập truyện “Tơ Vương Đến Thác” của Doãn xuất bản năm 2014. Doãn cho tôi hay đó là tiếc nuối cuối đời của Doãn về nghiệp văn chương. Tháng chạp Năm 2014 Doãn tổ chức buổi ra mắt tâp truyện “Tơ Vương Đến Thác” tai một thư viện công lập thuộc vùng San Diego. Trong các quan khách đến tham dự buổi ra mắt sách hôm ấy có một ngươi đàn bà đã lớn tuổi, mặc Jupe Soirée màu tơ vàng óng ả, có dôi mắt đen lánh đẹp và buồn. Doãn cảm thấy thấy gương mặt ấy, đôi mắt ấy rất là thân thương quen thuộc từ một thuở xa xâm nào đó của đời mình.

     Phá bỏ mọi nghi cách, người đàn bà ấy, tiến đến Doãn với tâp truyện “ Tơ Vương Đến Thác” và nói: “Phương Dung xin được đặc ân có được chữ ký đề tặng của tác giả”. Từ chiếc xe lăn, Doãn cố gắng đứng dậy hai tay nắm chặt và gục đầu trên bàn tay của Phương Dung...Doãn thều thào: ” Phải chi 50 năm về trước chúng ta nắm chặt được tay nhau như hôm nay thì cuộc sống của chúng ta đã hoàn toàn đổi thay”. Khi Doãn cuối đầu viết đề tặng Phương Dung tâp truyên với câu thơ của Thế Lữ: “ Cái phút ban đầu lưu luyên ấy. Nghìn năm chưa dễ một ai quên”. Lúc ây Phương Dung thì thầm: “ngày xưa tôi cũng mến anh vì tính tình còn việc sau này minh có găp lại nhau hay không điều đó không ai biết đươc, vì mỗi người có một hòan cảnh và số phận riêng, nhất là trong thời đại chiến tranh- Vậy coi như chúng ta lạc nhau trong chiến tranh”. Khi từ giã Doãn mắt Phương Dung tràn ngập lệ....

     Đến đây, đêm đã khuya, tôi đứng dậy từ giã Doãn. Doãn vẫn ngồi đó bên cạnh cây đàn Piano. Đôi mắt Doãn hầu như ngấn lệ. Doãn nhìn tôi, hai bàn tay Doãn trải dài lướt trên những phiếm đàn, Doãn vẫn một mình thều thào những lời tình tự Come Back to Sorrento của E. Curtis.
 

     Mở cửa xe ngồi vào ôm tay lái, tôi nghe văng vẳng tiếng hát già nua của Doãn trong đêm thâu với bản nhạc Romance Số 2, của Phú Quang- Thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ:

                                                            “....Em chết trong nỗi buồn

                                                        Chết như từng giọt sương, rơi không thành tiếng.....

                                                        ....Trong xứ sở của anh hiếm hoi niềm vui

                                                         Nỗi cô đơn khao khát đến nặng lòng

                                                           ....Đi bên anh, em còn lạc lối về

                                                           Có đôi khi muốn ngã như chiếc bóng

                                                             Ta lẫn vào đêm không ai nhận ra mình

                                                                    Em chết trong nỗi buồn

                                                                    Em chết trong nỗi buồn

                                                                    Em chết trong nỗi buồn.../.

 

Đào Như

Chicago

July 14-2020

(Để nhớ ngày sanh thứ 84 của tác giả)

Ghi Chú

(*) Đây là chuyện hoàn toàn hư cấu. Nếu vô tình có sự trùng lập tên họ với các nhân vật xin quí vị miễn thứ- Vô cùng tri ân-Đào Như.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.