Hôm nay,  

Mắt Biếc U Hoài

12/09/202017:08:00(Xem: 3630)

 Không biết đã bao lần y tự hỏi: "Trời xanh vương mắt em hay là đại dương thâu vào trong mắt em?” đôi mắt đã làm biêng biếc một quãng thời gian trong đời y, đêm đêm vào trong giấc ngủ thành những cơn mơ. Nhiều lúc y thấy mình chấp chới bay, laị có lúc như bơi trong làn nước xanh lơ, đôi mắt ấy mới đẹp làm sao! Em sở hữu nó, tạo hoá đã tạo ra một tuyệt tác. Em mang trong người hai dòng máu, vừa Mễ Tây Cơ vừa có gốc Ăng Lê.  Chất Ăng Lê vượt trội, vóc dáng đẹp tuyệt, eo thon, chân dài, da trắng như tuyết, nói như kiểu xứ mình là trắng như bông bưởi. Tuy vậy, tầm vóc Mễ Tây Cơ cũng tầm tầm như y thôi! Cái dáng vóc của em khá nhỏ nhắn và thanh mảnh, rất khác với cái tướng thô như phần lớn đồng hương của em.  Cái mà tạo ấn tượng nhất là đôi mắt xanh của em, tuy thuần túy tây phương nhưng đôi mắt em laị rất đông phương. Y đã gặp và thấy nhiều đôi mắt xanh tuyệt đẹp, trong vắt, vui tươi…Riêng  đôi mắt xanh của em laị thoáng man mác buồn, mang vẻ u hoài. Không biết có chủ quan quá không khi y khẳng định em là người có đôi mắt xanh u buồn duy nhất. Y đã thao thức nhiều đêm, đã viết không ít những vần thơ về đôi mắt ấy. Thuở mới vào đời, mới biết yêu, y cũng từng mê mệt với đôi mắt đen long lanh đượm buồn, những đôi mắt đẹp u hoài luôn ám ảnh y.

 Y và em đều là di dân, những kẻ đến xứ này kiếm cơm áo và hưởng tự do. Quê hương em nghèo nàn, lạc hậu, bất công và tham nhũng tràn lan, những băng đảng kết cấu với quan quyền hoành hành kinh khủng, tội phạm ngang nhiên lộng hành vô pháp vô thiên, tội phạm xì ke - ma tuý như rươi. Người dân thấp cổ bé họng bị nhũng nhiễu, bị bóc lột, bị làm tình làm tội đủ điều. Người dân lương thiện là nạn nhân của bạo lực, cường quyền, đaị đa số đều cố gắng nhẫn nhục mà sống nhưng vẫn không yên, chỉ có cách bỏ xứ ra đi tìm đất mới dung thân… Xứ sở của y cũng thế, nào có khác chi, thậm chí còn tệ hơn vì nghẹt thở dưới ý thức hệ hoang tưởng, cái danh từ nhân dân bị lạm dụng kinh khủng, mọi thứ đều nhân danh dân nhưng thực chất dân chỉ là những con cừu bị cường quyền cạo sạch lông, đè đầu cỡi cổ. Bởi vậy mà người của xứ em và người của quê y đều tìm đường đến đây. Người xứ em leo tường, vượt rào, băng qua sa mạc… nhiều nguy hiểm, có nhiều người bỏ mạng, tuy có nguy hiểm nhưng so với cái nguy hiểm của người xứ y thì chẳng nhằm nhò gì. Người xứ y phải băng rừng qua Miên, Lào, Thái, phải vượt biển bằng những con tàu mong manh như chiếc lá, bất chấp bão tố, sóng gió, đói khát, hải tặc… và đã có mấy trăm ngàn người vĩnh viễn nằm laị trong lòng biển cả. Không biết nhân duyên gì mà y và em laị gặp nhau ở cái hãng này, laị làm việc gần nhau. Công việc dù có mệt thế nào đi nữa nhưng ngày ngày được thấy em, nhìn đôi mắt em là bao nhiêu mệt cũng tan biến, laị còn thấy hưng phấn và yêu đời hơn. Những lúc em nhoẻn miệng cười hoặc mở to mắt ngạc nhiên khi y làm một việc ngớ ngẩn hay hỏi một lời vu vơ chi đó, thì y laị cảm thấy sung sướng như bắt được vàng.

 Ngày ngày gặp em, lòng xao xuyến lạ thường. Y không phải là gã trai mới vào đời, thế mà đôi khi cũng thấy bối rối làm sao. Y thường nhìn đắm đuối vào đôi mắt biếc u hoài ấy, có lẽ cái nhìn quá lộ liễu và đầy đam mê nên em tỏ vẻ e thẹn cúi mặt hoặc ngó lơ, có đôi khi chau mày tỏ vẻ không đồng ý. Trời! cái chau mày càng làm cho khuôn mặt em trở nên đẹp lạ thường, trông dễ thương làm sao và đôi mắt xanh càng quyến rũ, lôi cuốn hơn.

 Chuyện xưa kể nàng Tây Thi đẹp lắm, nàng bị bệnh tim, mỗi khi cơn đau nổi lên thì thường cau mày và ôm lấy ngực, những lúc ấy thì vẻ đẹp của nàng laị như nhân lên gấp bội. Không biết Tây Thi đẹp cỡ nào chứ em của y thì đẹp nhất hãng này. Mắt xanh biếc của em làm y nao lòng, ngẩn ngơ cả trong giấc ngủ. 

 Mỗi ngày vào hãng, chỉ một cái ôm xã giao buổi sáng nhưng với y là cả một nguồn năng lượng cho cả ngày hôm ấy. Thế rồi một hôm nọ, cũng ôm xã giao nhưng y đã hôn vào cổ của em. Em không ngạc nhiên mà chỉ cười nhẹ. Em thừa biết lòng y rồi, cái kiểu nhìn của y đã nói lên tất cả, không chỉ em biết mà tất cả những người cùng làm ở phân xưởng này đều biết, tình cảm của y biểu lộ qua đôi mắt mí lót quá rõ ràng. Chỉ một nụ hôn nhẹ vào cổ mà y cảm thấy đời như lên hương, lâng lâng như bay trên mấy tầng mây xanh, như vẫy vùng trong làn nước biển màu da trời. Y đã hít lấy mùi hương của em, với y thì không có mùi nước hoa nào trên đời có thể sánh bằng.

 Tháng năm qua mau, khối tình si trong lòng y ở laị. Một ngày cuối tuần em nhận lời đi uống cà phê với y, mặc dù em chưa bao giờ uống cà phê và cũng không thích cà phê. Quán cà phê người Ý, bài trí rất đẹp và nghệ thuật, những tranh tượng mang phong cách cổ điển thời phục hưng rất đẹp, thức ăn ngon, đặc biệt những tách cà phê cappuchino đặc trưng kiểu Italino thơm ngát, beo béo thật tuyệt. Y và em cười nói đủ chuyện trên đời nhưng chẳng đá động gì đến chuyện cần nói, dù không nói nhưng cả hai cũng thầm hiểu và vẫn biểu lộ rất rõ ràng. Ngày xưa cụ Nguyễn Du đã từng bảo:” Tình trong tuy đã nhưng ngoài còn e”. Y thì biểu lộ ra, em biết, mọi người xung quanh biết, cái cách y ứng xử và nhìn đôi mắt biếc ấy thì ai cũng biết cả, dù cho người đó là kẻ khờ nhất thế gian. Em đã chịu hẹn hò, thế là bướm đã chịu đèn, hoa đã vào tay, cờ đã trương lên. Vậy mà y vẫn e, không dám thú nhận, lòng y lấn cấn nỗi đau. Y dậm chân tại chỗ không dám tiến tới, dù cửa đã mở, tiệc đã bày, khách đã sẵn lòng… Tâm tư y dằn vặt nhiều ngày, nội tâm y giằng xé dữ dội giữa đam mê và đạo đức, giữa bay bướm và đàng hoàng, cơn nội chiến trong lòng y thật khốc liệt. Y đã có vợ và cô con gái xinh xắn, vợ  y là người tốt, biết chăm lo và vun vén cho gia đình, chung thủy hết lòng…Y không nỡ làm cho vợ y đau. Lòng y chịu đau vì cơn đam mê thèm khát cháy bỏng, đôi mắt xanh mê hoặc y, đôi mắt xanh của em, một người phương tây laị mang vẻ u hoài của phương đông. Trách nhiệm, đạo đức một bên, bên kia là thoã mãn cái “tôi” cá nhân, cái tánh lãng mạn được bao biện là nghệ sĩ…Y ở giữa hai bàn cân, y đứng giữa con đường, cái con đường mà y luôn gặp trong đời. Có khi là giữa con đường đời, đường đạo, đường học, đường tình, đường tiến, đường lui…Lòng y còn có một nỗi khắc khoải lớn hơn nữa, y là một Phật tử, đã quy y, đã thọ giới. Nếu y “ chết” trong cuộc tình mắt biếc u hoài này tức là phản bội laị niềm tin và giới hạnh, tức là y nói và làm không nhất như, viết và sống không tương ưng. Sau nhiều ngày suy nghĩ, y thấm thiá với câu nói dân gian:” Ba sông bảy núi qua nổi, có cái gối ôm không dám vượt qua”, quả thật đúng như thế! 

 Y vẫn tự hào là một Phật tử, ở trong cái hãng này có mấy trăm con người với bao sắc dân và bao đức tin khác nhau. Y là Phật tử duy nhất trong số đó, lẽ nào giờ đây y laị bôi xấu cái đức tin của mình? lẽ nào làm ô uế cái danh dự người Phật tử? lẽ nào? lẽ nào? Bao nhiêu câu hỏi xoáy trong đầu y. Tấm thân hấp dẫn kia, đôi mắt biếc u hoài kia cũng riết róng trong tâm tư y, đẹp quá, dễ thương quá! mật ngọt của cuộc đời lẽ nào không hưởng?  Con tim và lý trí của y xảy ra nội chiến, người ta bảo:” Lý trí có lý lẽ riêng của nó” là vậy! 

 Thế rồi y cầm tay em nói một câu khách sáo và dối lòng:” Baby, you are my best friend”, một câu nói vô vị gây thất vọng ở nơi em. Có thể nói là câu nói vô duyên lạc lõng, chẳng ăn nhập gì với hoàn cảnh thực tại. Y nói cái câu nói không phải thực lòng của y và không phải là câu nói mà em muốn nghe. Em cười nhẹ nhưng thoáng vẻ buồn, đôi mắt xanh u hoài dường như buồn  và xa xăm hơn. Thế rồi những ngày sau đó em lặng lẽ hơn, ít cười hơn và cố tránh mặt y. Thế rồi gia đình em di chuyển sang tiểu bang khác, từ đó y không còn gặp laị em, vĩnh viễn mất em nhưng đôi mắt biếc u hoài vẫn lung linh trong tâm tư y. 

 Đêm về khuya, y quay qua hôn lên mắt vợ, tuy đang ngủ nhưng vợ y thoáng nụ cười nhẹ trên gương mặt. Lòng y bất chợt cảm động, may mà đã không vượt qua nổi cái gối ôm với mắt biếc u hoài kia.


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 09/2020

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chị Hai đã uống một ly nước đầy và đi làm việc tiếp. Đoan vào lại chỗ của mình. Như một phản xạ, Đoan lại cho tay vào túi, làm như tìm xem trong đó có sót lại một viên kẹo chăng. Mơ hồ, Đoan nhớ ngày xưa Đoan hay ví một hành động “vớt vát” nào đó như là “tìm con cá sót lại trong chiếc giỏ của cô Tấm.” Mắt Đoan cay cay. Bỗng như thấy mình đang đi vào lại đường cây còng. Mùa mưa, những chiếc lá trên cao đọng nước, rũ nhè nhẹ xuống tóc Đoan, nghe mát. Hai túi áo blouse lúc nào cũng đầy kẹo. Đoan vào trại bệnh. Những dãy giường đầy người. Thay băng xong cho ai, Đoan tặng người ấy một viên kẹo
Ở đây tôi chỉ muốn đưa một vài nét chính của các môn Khí công mà tôi đã tập qua, để người đọc theo đó sẽ chọn được một môn pháp thích hợp cho mình tập. Chả thế người xưa thường hay nói “Tùy bịnh chọn công“, tùy theo thể chất và sức khoẻ mà chọn cách tập Khí công.
Ngày tựu trường năm nay, trường Việt Ngữ Suối Mở Offenbach đón tiếp 14 học trò mới với tuổi tác, trình độ tiếng Đức, tiếng Việt chênh lệch khá nhiều. Tạm thời, cô giáo gọi lớp này là Lớp Mới. Giờ học đầu tiên, cô giáo chưa thực sự “dạy” chữ, chỉ “dỗ” các học trò. Hy vọng học trò sẽ thấy học tiếng Việt không khó lắm và tìm thấy niềm vui khi đến trường Việt Ngữ mỗi thứ Bảy. Chờ cho học trò tìm chỗ ngồi xong, cô giáo giới thiệu mình, và tập cho học trò chào hỏi. Nghe các em đồng thanh: “Con chào cô giáo”, lòng cô giáo rộn lên niềm vui, liên tưởng câu châm ngôn “tiên học lễ, hậu học văn” mình được học ngày xưa.
Cô vẫn nhìn thẳng phía trước, không nhìn ngang nhìn ngửa. Anh liếc nhìn cái túi xách giữa hai đùi cô, thấy cộm lên, nghĩ rằng trong ấy có một khẩu súng ngắn, đã lên đạn, lát nữa sẽ kề vào thái dương của anh. Anh nín thở.
Tháng tư 1976, sau một mùa đông ở North Dakota, vừa có bằng lái xe, tôi bỏ việc, bỏ lại một vùng quá bình an, quá tử tế, nhưng cũng quá cô quạnh này, đi thẳng về hướng tây...
“Anh nhớ đến dự lễ trao đẳng cấp Đại Bàng cho thằng con em nha! Để mừng cho em và cháu…” Tôi nhận được điện thoại như vậy từ C., một người bạn trẻ có con trai là hướng đạo sinh thuộc Liên Đoàn Trường Sơn, được nhận danh hiệu Đại Bàng vào ngày 16/08/2025. Đã lâu rồi, kể từ khi hai thằng con ngưng sinh hoạt hướng đạo để đi học đi làm, tôi không có dịp trở về thăm lại liên đoàn. Công việc thì nhiều, thời gian thì ít. Nhưng lần này thì không từ chối được rồi!
Đó là tháng 6-1989, lần đầu đến New York và vào một bảo tàng viện nổi tiếng ở đây, tôi tình cờ, tới chỗ treo một bức tranh trừu tượng khổng lồ, cao khoảng 2 mét, ngang khoảng 6 mét. Tôi kinh ngạc với sự giàu có ở đây, bảo tàng viện này dành riêng ra một căn phòng lớn, đơn giản, sang trọng, chỉ để trưng bày một bức tranh đó...
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.