Hôm nay,  

Mắt Biếc U Hoài

12/09/202017:08:00(Xem: 3633)

 Không biết đã bao lần y tự hỏi: "Trời xanh vương mắt em hay là đại dương thâu vào trong mắt em?” đôi mắt đã làm biêng biếc một quãng thời gian trong đời y, đêm đêm vào trong giấc ngủ thành những cơn mơ. Nhiều lúc y thấy mình chấp chới bay, laị có lúc như bơi trong làn nước xanh lơ, đôi mắt ấy mới đẹp làm sao! Em sở hữu nó, tạo hoá đã tạo ra một tuyệt tác. Em mang trong người hai dòng máu, vừa Mễ Tây Cơ vừa có gốc Ăng Lê.  Chất Ăng Lê vượt trội, vóc dáng đẹp tuyệt, eo thon, chân dài, da trắng như tuyết, nói như kiểu xứ mình là trắng như bông bưởi. Tuy vậy, tầm vóc Mễ Tây Cơ cũng tầm tầm như y thôi! Cái dáng vóc của em khá nhỏ nhắn và thanh mảnh, rất khác với cái tướng thô như phần lớn đồng hương của em.  Cái mà tạo ấn tượng nhất là đôi mắt xanh của em, tuy thuần túy tây phương nhưng đôi mắt em laị rất đông phương. Y đã gặp và thấy nhiều đôi mắt xanh tuyệt đẹp, trong vắt, vui tươi…Riêng  đôi mắt xanh của em laị thoáng man mác buồn, mang vẻ u hoài. Không biết có chủ quan quá không khi y khẳng định em là người có đôi mắt xanh u buồn duy nhất. Y đã thao thức nhiều đêm, đã viết không ít những vần thơ về đôi mắt ấy. Thuở mới vào đời, mới biết yêu, y cũng từng mê mệt với đôi mắt đen long lanh đượm buồn, những đôi mắt đẹp u hoài luôn ám ảnh y.

 Y và em đều là di dân, những kẻ đến xứ này kiếm cơm áo và hưởng tự do. Quê hương em nghèo nàn, lạc hậu, bất công và tham nhũng tràn lan, những băng đảng kết cấu với quan quyền hoành hành kinh khủng, tội phạm ngang nhiên lộng hành vô pháp vô thiên, tội phạm xì ke - ma tuý như rươi. Người dân thấp cổ bé họng bị nhũng nhiễu, bị bóc lột, bị làm tình làm tội đủ điều. Người dân lương thiện là nạn nhân của bạo lực, cường quyền, đaị đa số đều cố gắng nhẫn nhục mà sống nhưng vẫn không yên, chỉ có cách bỏ xứ ra đi tìm đất mới dung thân… Xứ sở của y cũng thế, nào có khác chi, thậm chí còn tệ hơn vì nghẹt thở dưới ý thức hệ hoang tưởng, cái danh từ nhân dân bị lạm dụng kinh khủng, mọi thứ đều nhân danh dân nhưng thực chất dân chỉ là những con cừu bị cường quyền cạo sạch lông, đè đầu cỡi cổ. Bởi vậy mà người của xứ em và người của quê y đều tìm đường đến đây. Người xứ em leo tường, vượt rào, băng qua sa mạc… nhiều nguy hiểm, có nhiều người bỏ mạng, tuy có nguy hiểm nhưng so với cái nguy hiểm của người xứ y thì chẳng nhằm nhò gì. Người xứ y phải băng rừng qua Miên, Lào, Thái, phải vượt biển bằng những con tàu mong manh như chiếc lá, bất chấp bão tố, sóng gió, đói khát, hải tặc… và đã có mấy trăm ngàn người vĩnh viễn nằm laị trong lòng biển cả. Không biết nhân duyên gì mà y và em laị gặp nhau ở cái hãng này, laị làm việc gần nhau. Công việc dù có mệt thế nào đi nữa nhưng ngày ngày được thấy em, nhìn đôi mắt em là bao nhiêu mệt cũng tan biến, laị còn thấy hưng phấn và yêu đời hơn. Những lúc em nhoẻn miệng cười hoặc mở to mắt ngạc nhiên khi y làm một việc ngớ ngẩn hay hỏi một lời vu vơ chi đó, thì y laị cảm thấy sung sướng như bắt được vàng.

 Ngày ngày gặp em, lòng xao xuyến lạ thường. Y không phải là gã trai mới vào đời, thế mà đôi khi cũng thấy bối rối làm sao. Y thường nhìn đắm đuối vào đôi mắt biếc u hoài ấy, có lẽ cái nhìn quá lộ liễu và đầy đam mê nên em tỏ vẻ e thẹn cúi mặt hoặc ngó lơ, có đôi khi chau mày tỏ vẻ không đồng ý. Trời! cái chau mày càng làm cho khuôn mặt em trở nên đẹp lạ thường, trông dễ thương làm sao và đôi mắt xanh càng quyến rũ, lôi cuốn hơn.

 Chuyện xưa kể nàng Tây Thi đẹp lắm, nàng bị bệnh tim, mỗi khi cơn đau nổi lên thì thường cau mày và ôm lấy ngực, những lúc ấy thì vẻ đẹp của nàng laị như nhân lên gấp bội. Không biết Tây Thi đẹp cỡ nào chứ em của y thì đẹp nhất hãng này. Mắt xanh biếc của em làm y nao lòng, ngẩn ngơ cả trong giấc ngủ. 

 Mỗi ngày vào hãng, chỉ một cái ôm xã giao buổi sáng nhưng với y là cả một nguồn năng lượng cho cả ngày hôm ấy. Thế rồi một hôm nọ, cũng ôm xã giao nhưng y đã hôn vào cổ của em. Em không ngạc nhiên mà chỉ cười nhẹ. Em thừa biết lòng y rồi, cái kiểu nhìn của y đã nói lên tất cả, không chỉ em biết mà tất cả những người cùng làm ở phân xưởng này đều biết, tình cảm của y biểu lộ qua đôi mắt mí lót quá rõ ràng. Chỉ một nụ hôn nhẹ vào cổ mà y cảm thấy đời như lên hương, lâng lâng như bay trên mấy tầng mây xanh, như vẫy vùng trong làn nước biển màu da trời. Y đã hít lấy mùi hương của em, với y thì không có mùi nước hoa nào trên đời có thể sánh bằng.

 Tháng năm qua mau, khối tình si trong lòng y ở laị. Một ngày cuối tuần em nhận lời đi uống cà phê với y, mặc dù em chưa bao giờ uống cà phê và cũng không thích cà phê. Quán cà phê người Ý, bài trí rất đẹp và nghệ thuật, những tranh tượng mang phong cách cổ điển thời phục hưng rất đẹp, thức ăn ngon, đặc biệt những tách cà phê cappuchino đặc trưng kiểu Italino thơm ngát, beo béo thật tuyệt. Y và em cười nói đủ chuyện trên đời nhưng chẳng đá động gì đến chuyện cần nói, dù không nói nhưng cả hai cũng thầm hiểu và vẫn biểu lộ rất rõ ràng. Ngày xưa cụ Nguyễn Du đã từng bảo:” Tình trong tuy đã nhưng ngoài còn e”. Y thì biểu lộ ra, em biết, mọi người xung quanh biết, cái cách y ứng xử và nhìn đôi mắt biếc ấy thì ai cũng biết cả, dù cho người đó là kẻ khờ nhất thế gian. Em đã chịu hẹn hò, thế là bướm đã chịu đèn, hoa đã vào tay, cờ đã trương lên. Vậy mà y vẫn e, không dám thú nhận, lòng y lấn cấn nỗi đau. Y dậm chân tại chỗ không dám tiến tới, dù cửa đã mở, tiệc đã bày, khách đã sẵn lòng… Tâm tư y dằn vặt nhiều ngày, nội tâm y giằng xé dữ dội giữa đam mê và đạo đức, giữa bay bướm và đàng hoàng, cơn nội chiến trong lòng y thật khốc liệt. Y đã có vợ và cô con gái xinh xắn, vợ  y là người tốt, biết chăm lo và vun vén cho gia đình, chung thủy hết lòng…Y không nỡ làm cho vợ y đau. Lòng y chịu đau vì cơn đam mê thèm khát cháy bỏng, đôi mắt xanh mê hoặc y, đôi mắt xanh của em, một người phương tây laị mang vẻ u hoài của phương đông. Trách nhiệm, đạo đức một bên, bên kia là thoã mãn cái “tôi” cá nhân, cái tánh lãng mạn được bao biện là nghệ sĩ…Y ở giữa hai bàn cân, y đứng giữa con đường, cái con đường mà y luôn gặp trong đời. Có khi là giữa con đường đời, đường đạo, đường học, đường tình, đường tiến, đường lui…Lòng y còn có một nỗi khắc khoải lớn hơn nữa, y là một Phật tử, đã quy y, đã thọ giới. Nếu y “ chết” trong cuộc tình mắt biếc u hoài này tức là phản bội laị niềm tin và giới hạnh, tức là y nói và làm không nhất như, viết và sống không tương ưng. Sau nhiều ngày suy nghĩ, y thấm thiá với câu nói dân gian:” Ba sông bảy núi qua nổi, có cái gối ôm không dám vượt qua”, quả thật đúng như thế! 

 Y vẫn tự hào là một Phật tử, ở trong cái hãng này có mấy trăm con người với bao sắc dân và bao đức tin khác nhau. Y là Phật tử duy nhất trong số đó, lẽ nào giờ đây y laị bôi xấu cái đức tin của mình? lẽ nào làm ô uế cái danh dự người Phật tử? lẽ nào? lẽ nào? Bao nhiêu câu hỏi xoáy trong đầu y. Tấm thân hấp dẫn kia, đôi mắt biếc u hoài kia cũng riết róng trong tâm tư y, đẹp quá, dễ thương quá! mật ngọt của cuộc đời lẽ nào không hưởng?  Con tim và lý trí của y xảy ra nội chiến, người ta bảo:” Lý trí có lý lẽ riêng của nó” là vậy! 

 Thế rồi y cầm tay em nói một câu khách sáo và dối lòng:” Baby, you are my best friend”, một câu nói vô vị gây thất vọng ở nơi em. Có thể nói là câu nói vô duyên lạc lõng, chẳng ăn nhập gì với hoàn cảnh thực tại. Y nói cái câu nói không phải thực lòng của y và không phải là câu nói mà em muốn nghe. Em cười nhẹ nhưng thoáng vẻ buồn, đôi mắt xanh u hoài dường như buồn  và xa xăm hơn. Thế rồi những ngày sau đó em lặng lẽ hơn, ít cười hơn và cố tránh mặt y. Thế rồi gia đình em di chuyển sang tiểu bang khác, từ đó y không còn gặp laị em, vĩnh viễn mất em nhưng đôi mắt biếc u hoài vẫn lung linh trong tâm tư y. 

 Đêm về khuya, y quay qua hôn lên mắt vợ, tuy đang ngủ nhưng vợ y thoáng nụ cười nhẹ trên gương mặt. Lòng y bất chợt cảm động, may mà đã không vượt qua nổi cái gối ôm với mắt biếc u hoài kia.


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 09/2020

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.