Hôm nay,  

Nhật Ký "Cấm Túc" Tuần 28

02/10/202010:32:00(Xem: 3647)

Thứ hai 21 tháng 9


Đó là một tiệm giày nhỏ kiểu "pop and mom store" ở thành phố ven biển miền Tây, Astoria, Oregon đã được truyền qua bốn thế hệ, đã sống còn sau 128 năm. Năm 1892, ông cố của Pete Gimre từ Na Uy, di cư sang Mỹ và mở tiệm giày Gimre's shoes. Hết đời ông, tiệm giày truyền lại cho ông nội, rồi đến cha của Pete.

Pete bắt đầu ra tiệm giày làm việc, phụ giúp cha lúc vừa bước vào tuổi 16. Năm 1984, cha ông quyết định về hưu, truyền lại tiệm giày cho Pete, lúc đó vừa bước vào tuổi 24, nhưng đã có sáu năm gắn bó với Gimre's shoes.


blankblank

                       Courtesy of Pete Gimre 


Là một tiệm giày nhỏ, Gimre's Shoes không bán online, chỉ có những khách hàng trung thành là dân địa phương, và du khách. Cách làm ăn có uy tín và thành thật của Gimre's Shoes stores chiếm được cảm tình của khách hàng.  Tiệm giày nhỏ này trở thành một nơi quen thuộc cho dân địa phương khi người ta cần một đôi giày mới cho một chuyến leo núi, một chuyến đi xa, một đôi giày cao cổ cho mùa đông, hay một đôi dép cho mùa hè...


Họ lớn lên, già đi, vẫn yên phận với cuộc sống an lành, không bon chen, rất ổn định. Nhưng rồi "thuở trời đất nổi cơn... đại dịch", cũng như các tiểu bang khác, Oregon cũng lockdown, Gimre's Shoes cũng phải đóng cửa. Chương trình trợ giúp PPP  (Payroll Protection Program) từ chính quyền Liên bang, giúp Pete trả được tiền thuê mặt bằng, giữ được tiệm giày tồn tại.


Thời hạn lockdown của Oregon chấm dứt, Gimre's Shoes mở cửa lại, chỉ còn ông chủ tiệm và hai nhân viên. Ở một thị trấn nhỏ, người ta biết nhau, và hết lòng ủng hộ nhau về mọi mặt, nên tiệm giày đã được truyền qua bốn  thế hệ, dù doanh số không còn như trước, nhưng vẫn đủ để trang trải chi phí và sống còn trong thời đại dịch. 

Sau hơn nửa năm, cúm Tàu len lỏi vào Mỹ, con số các tiệm nhỏ đóng cửa nhiều đến nỗi người ta không tưởng tượng nỗi. Hệ thống truyền thông chỉ nhắc đến các Công Ty lớn, vì con số nhân viên bị sa thải lên đến vài chục ngàn. Những tiệm nhỏ (pop and mom stores) âm thầm đóng cửa, không có thông báo, vì người ta không có doanh thu, không đủ tiền trả tiền thuê mặt bằng. Đến nỗi trên tờ Washington-post, đã có một bài xã luận có một cái tựa khá ngộ nghĩnh và buồn "Một lễ cầu siêu cho tất cả các cửa hàng nhỏ phải đóng cửa vĩnh viễn vì đại dịch", ký giả Petula Dvorak đã mô tả về tình hình chung các cửa tiệm sang trọng chuyên phục vụ các dân biểu, nghị sĩ và nhân viên ngoại giao đoàn quanh vùng thủ đô Washington DC.


blankblank


Chẳng hạn tiệm kính thuốc Wagner Opticians ở thủ đô DC đã phải âm thầm  đóng cửa sau đúng nửa thế kỷ ăn nên làm ra. Tiệm đã sống sót sau nhiều biến cố lớn nhỏ, cả chính trị, lẫn kinh tế,đã tồn tại qua các cuộc suy thoái kinh tế, nhưng đã không thể tồn tại trong thời đại dịch. 


Thứ ba 22 tháng 9


Mùa thu đang về, mùa lá vàng rơi đẹp nhất trong năm. Nhưng vào năm 2020. mùa thu được nhắc đến không thơ mộng như "lá thu rơi xào xạc" mà sẽ được nhắc đến như một mùa ác mộng, mùa mà vi trùng cúm (đủ loại cúm) tấn công nhân loại.

Mỗi một tiếng ho, mỗi một tiếng "hắt xì" trong thời đại dịch đều có thể làm cho người chung quanh tránh xa "người phát ra tiếng động" không chỉ hai thước mà càng xa càng tốt.

Không ồn ào, hoa lá cành như các mặt hàng trang trí cho lễ hội ma quỷ Halloween, những túi kẹo ho, những viên thuốc trị dị ứng không cần toa bác sĩ lặng lẽ xuất hiện trên các quầy hàng "bán theo mùa" (seasonal goods counters).


Theo Asthma and Allergy Foundation of America, có đến 23 triệu người Mỹ bị dị ứng với phấn hoa, với thời tiết thay đổi. (Chính bản thân chúng tôi cũng là một trong số những người này , nên vào lúc chuyển mùa trong thời đại dịch, phải tự nguyện "cấm cung" để khỏi gây ra "khủng bố tinh thần" cho người khác vì mũi của mình rất nhạy cảm với thời tiết).

Vì vậy, cũng vào mùa đại dịch, các loại thuốc dị ứng, thuốc ho không có side effect, bán tự do ở các quầy thuốc tây trở nên đắt hàng. Ngay cả vitamin C giúp tăng sức đề kháng cũng được tìm mua nhiều hơn những mùa thu không có đại dịch.


Cho đến khi có vaccine, nhân loại vẫn phải sống với khẩu trang, với khoảng cách giao tiếp xã hội hai mét. Cùng giúp nhau vượt qua đại dịch dễ dàng hơn bằng lòng kiên nhẫn. 

Chợt nhớ một lời khuyên đọc được từ sách (không còn nhớ là của ai) "Nếu không ra khỏi sa mạc được, thì hãy là một cây xương rồng để tồn tại".


Coronavirus đã thắng trận thứ nhất, có thể sẽ thắng trận thứ hai vào mùa thu năm nay, nhưng nhân loại sẽ thắng trận chiến với kẻ thù vô hình Coronavirus. Cho đến lúc đó, có lẽ chúng ta phải tập là một cây xương rồng để tồn tại, và sống còn sau đại dịch.  


Thứ tư 23 tháng 9


Bạn có tin là một người đã bước vào tuổi 90 có thể "hạ đo ván" Coronavirus chỉ trong ba tuần lễ? Đó là một "kỳ tích", một phép lạ xảy ra với ông cụ Enzo Carnaroli ở thành phố Media (phía Đông Nam của tiểu bang Pennsylvania), dân số chưa đến sáu ngàn người. 


Vào ngày cuối cùng của tháng 8, ông Carnaroli thức dậy với một cơn sốt, ông lập tức được đưa vào bệnh viện Riddle Hospital.

Ở tuổi 90, bị nhiễm Coronavirus, ông bị cách ly hoàn toàn, và được chăm sóc đặc biệt dù hy vọng hồi phục không cao.

Ông được truyền huyết tương (plasma) của một "cựu bệnh nhân" COVID-19 như một cách điều trị "còn nước còn tát". Như một phép màu, sau ba tuần chiến đấu với cúm Vũ Hán với cơ thể của một người 90 tuổi, ông Carnaroli lành bệnh.

Đây không phải là lần đầu tiên, ông cụ ở cận kề bờ sinh tử. Ở tuổi 70, ông đã chiến đấu mãnh liệt và đã thắng được ung thư ruột (colon cancer) giai đoạn bốn. Hình như cơ thể ông có đầy đủ "kinh nghiệm chiến đấu" khi đứng gần lằn ranh sinh tử?  

Nhân viên bệnh viện và vợ ông (bà Joan) đều tin là việc truyền huyết tương (plasma) của người đã khỏi bệnh cúm Vũ Hán là đồng minh mạnh nhất giúp ông Carnaroli đánh bại được Coronavirus. 


Ngày ông xuất viện, cả bệnh viện đều lạc quan, vui mừng. Họ tiễn ông ra tận cửa bệnh viện, đeo cho ông một cặp găng tay boxing màu đỏ, và cho phát một bài hát trong album "Rocky" từ 43 năm trước như là một biểu tượng của việc chiến đấu và đã thắng được bệnh tật của ông Carnaroli. 


blank

                                             Courtesy of abc news


Khi được phỏng vấn, ông Carnaroli-một người Ý đã di cư qua Mỹ từ lúc còn rất trẻ- đã nhỏ nhẹ trả lời "Tôi cầu nguyện mình sẽ khỏe hơn và sống được thêm vài năm nữa . Chỉ có thế thôi, không mong gì hơn"


Trước ông Carnatoli, ông Phil Corio, người già nhất nước Mỹ hiện nay, ở tiểu bang New Mexico cũng thắng vẻ vang trong trận chiến đấu không cân sức với Coronavirus vào tháng 5 năm nay.


Có thể trong và sau đại dịch, người ta cảm nhận được định mệnh, và đôi khi sẽ tự nhắc mình "đừng bao giờ nguyền rủa định mệnh, mỗi điều định mệnh mang đến đều có ghi giá một cách kín đáo" .


Thứ năm 24 tháng 9


Đến trung tuần tháng 9 năm 2020, sau hơn nửa năm đại dịch COVID-19 xuất phát từ Vũ Hán, China,  hoành hành ngang dọc trên thế giới, cướp đi hơn một triệu sinh mạng, và làm cho hơn 25 triệu người đã lành bệnh, nhưng vẫn phải sống với những di chứng khác nhau từ cúm Tàu, người được ghi nhận là bệnh nhân cao tuổi nhất thế giới đã thắng được Coronavirus là bà cụ Maria Branyas ,113 tuổi,  người Tây Ban Nha.


Cụ Branyas là người Tây Ban Nha, nhưng sinh ra ở San Francisco năm 1907, khi thân sinh của cụ, một ký giả người Tây Ban Nha, qua Mỹ làm việc dài hạn, mang theo vợ của mình. Cô bé Maria Branyas lớn lên, đi học ở Mỹ, cho đến năm lên 8 tuổi, thì theo cha mẹ về sống ở Tây Ban Nha. Từ hai mươi năm nay, cụ Maria sống trong viện dưỡng lão ở ngay nguyên quán của mình Catalonian, Spanish, sức khỏe vẫn tốt, mặc dù tai đã không thể nghe, và mắt đã không thể nhìn rõ. 


blankblank

      Courtesy of  YouTube/AgenciaEFE/ David Alvarez  & Twitter/@telemadrid


Vào ngày 4 tháng 3 năm nay, 10 ngày trước khi Tây Ban Nha ban hành lệnh lockdown rất nghiêm ngặt, cụ Branyas được mọi người tổ chức sinh nhật thứ 113 ngay trên giường của cụ. Chỉ một tháng sau đó, cụ bị nhiễm Coronavirus và bị cách ly hoàn toàn cho đến lúc cụ có được COVID-19 test âm tính. 


Không hiểu cụ được điều trị hay chỉ để đó cho "nước chảy bèo trôi"? Coronavirus đến rồi đi,vì cảm thấy không thể tấn công nổi một người đã sống hơn một thế kỷ, đã sống sót qua hai thế chiến, qua nội chiến Tây Ban Nha (1936-1939), và sống sót qua cả hai đại dịch: cúm Tây Ban Nha 1918, và cúm Tàu 2019 .

"Bạn cùng nhà" với Cụ, trong tổng số 133 người ở viện dưỡng lão , đã có gần 20 người "trẻ" hơn Cụ bị Coronavirus mang ra khỏi đời sống.


Qua một người con gái, cũng là một người lớn tuổi, cụ Branyas vẫn còn sáng suốt nhận xét về đại dịch trong một cuộc phỏng vấn của tuần báo "The Observer" của Anh:


- "Tôi lại phải trải qua một cơn đại dịch nữa, một đại họa của thế giới một lần nữa với một hình thức khác. Hình như tôi đã nợ tất cả những người nằm xuống vì đại dịch".


Phần cuối của cuộc phỏng vấn là những bài học đáng giá cho tất cả mọi người trên thế giới, giàu hay nghèo, già hay trẻ, hạnh phúc hay bất hạnh :


- "Những người lớn tuổi đã chiến đấu suốt cuộc đời họ, hy sinh tuổi trẻ và giấc mơ của họ cho chất lượng của cuộc sống ngày hôm nay. Họ không đáng để bị lãng quên , đi ra khỏi cuộc đời như thế này." (They fought their whole lives, sacrificed time and their dreams for today’s quality of life. They didn’t deserve to leave the world in this way.)


- "Ở tuổi của tôi, tôi sẽ không tồn tại lâu hơn, nhưng hãy tin tôi , một trật tự mới cần được thiết lập" (Given my age, I likely won’t be there. But believe me a new order is needed.)


Chỉ tiếc là cụ không còn sức để chỉ dạy thêm cho hậu sinh về "trật tự mới" cần có để giúp cuộc sống nhẹ nhàng, bình an hơn. Nhưng chỉ như thế cũng để cho chúng ta phải suy nghĩ lâu, lâu lắm, có thể cho đến cuối cuộc đời.


Thứ sáu 25 tháng 9


Niên khóa 2020-2021 bắt đầu khi người ta "lâu rồi đời cũng quen" sống với đại dịch. Các em học sinh cũng quen thuộc với việc log in mỗi sáng, gặp thầy cô, bạn bè qua màn ảnh hình chữ nhật của computer, Ipad.

Hai đứa con nhỏ của ông Mitchell Couch biến chiếc bàn ăn của gia đình trong nhà bếp thành nơi học "virtual learning" của mình. Nhiều hôm,ông bà Couch phải "ăn lưu động" vì không muốn các con thiếu tập trung trong việc học.


blank

                                               Courtesy of Mitchell Couch - Instagram 


Là một người thợ mộc với hơn 20 năm kinh nghiệm, Mitchell đóng cho hai đứa con hai cái bàn học để giúp các con có không gian riêng trong việc học ở nhà.

Ông cũng nghĩ đến những đứa trẻ con khác, mà cha của các em không phải là thợ mộc.

Mitchell làm một video đơn giản post lên youtube, chỉ dẫn cặn kẽ cách đóng bàn cho học trò. Ông cũng cẩn thận liệt kê vật liệu cần có để giúp các ông bố "tay ngang" tự đóng được bàn học cho con của mình.


Video đó lọt vào mắt của một người chủ ngôi chợ Grocery Outlet ở cùng thành phố Leemore, miền Trung California. Người này liên lạc với Mitchell, bỏ tiền ra mua vật liệu (gỗ, đinh, sơn..) nhờ Mitchell đóng thêm một số bàn học cho những học sinh thuộc các gia đình nghèo.


"Kẻ góp công, người góp của", họ cùng có tấm lòng nên đã cung cấp được 37 cái bàn học cho các em học sinh ở địa phương tính đến trung tuần tháng 9. Và vẫn còn tiếp tục trong tình hình bàn học, bàn làm việc đang bỗng dưng tạm thời khan hiếm trong thời đại dịch khi người lớn làm việc ở nhà, và các em học qua màn hình computer.

Hạnh phúc đến với cả người cho lẫn người nhận, ngay cả trong thời đại dịch ở một thị trấn nhỏ, nghèo sống bằng nông nghiệp ở miền Trung California. 


Riêng Mitchel, mỗi tối ông vẫn trả lời các thắc mắc về việc đóng bàn học qua mạng xã hội Reddit cho các ông bố không những chỉ ở Leemore, mà còn ở khắp nước Mỹ.

Bằng tấm lòng, người ta vẫn tìm thấy hạnh phúc ngay cả trong thời... mắc dịch.


Thứ bảy 26 tháng 9


Đại dịch đã làm cho sự ổn định kinh tế trở nên bấp bênh hơn, với hàng triệu người hiện đang phải chuyển từ cuộc sống tương đối thoải mái sang không biết bữa ăn tiếp theo của họ đến từ đâu?


COVID-19 đã kéo dài hơn nửa năm, làm cho bữa ăn của gia đình Matilde Alonso càng ngày càng đơn giản.

Trước đại dịch,  bữa ăn tối của gia đình anh Alonso  thường có thịt gà, các con của anh được uống sữa tươi mỗi ngày. Bây giờ, bữa ăn của họ chỉ có bánh bột tortilla với muối. Ngay cả bánh mì, anh cũng không có tiền mua, và các con anh phải uống nước thay cho sữa.


Alonso mất công việc của một công nhân xây dựng khi Coronavirus bắt đầu đặt chân đến Guatemala, Bắc Mỹ . Từ vài tháng nay, ba bữa ăn sáng, chiều, tối của gia đình anh chỉ có bánh tortilla trộn muối, không có một thứ gì khác! Vợ anh còn cố tiết kiệm bằng cách mua bột mì về tự làm bánh tortilla, không dám mua các túi bánh tortilla cán mỏng hình tròn làm sẵn bày bán ở chợ.


Có những đêm không ngủ được, Matilde Alonso nghĩ đủ cách để kiếm tiền nuôi sáu miệng ăn trong gia đình. Không có công ăn việc làm, không có một hy vọng nào nhận thêm trợ cấp từ Chính phủ, ngoài $130  đã được giúp. Ở một đất nước nghèo khó, nợ nần chồng chất như Guatemala, trợ cấp 130 dollars cho mỗi gia đình đã là một cố gắng tối đa. Không ai dám hy vọng gì hơn. Anh nghĩ mãi, vẫn không tìm ra được cách kiếm tiền. Trong bóng tối của đêm dài, nghĩ đến những đứa con sẽ thiếu ăn, thiếu mặc, nước mắt anh chảy dài.


Một người bạn thương tình cho Alonso mướn một mảnh đất nhỏ , một người bạn khác cho anh mua chịu một số hạt giống, và hóa chất làm đất màu mỡ, xốp hơn. Thế là anh công nhân xây dựng siêng năng trở thành một nông dân cần cù, một nắng hai sương, mỗi ngày cày bừa, trồng trọt với hy vọng nhỏ nhoi có đủ thực phẩm cho sáu miệng ăn, và có đủ tiền trả lại cho những người bạn tốt đã giúp anh trong lúc khốn cùng.


Nghe chuyện này, mỗi lần uống sữa, chúng tôi vẫn nghẹn ngào nghĩ đến đâu đó trên địa cầu, có những em bé như bốn đứa con nhỏ của anh Alonso, và chắc chắn là có những em nhỏ khác ở khắp địa cầu, ở quê nhà vẫn phải uống nước đường, thậm chí cả nước lã thay cho sữa. 

Xin cùng góp phần giúp các em nhỏ đáng thương này bằng cách hiến tặng tiền online trên những trang web của các tổ chức thiện nguyện lớn, nhỏ, chẳng hạn như  Unicef, Milkcare Foundation ...

Không cần nhiều, chỉ cần $20 mỗi ba tháng, một trong những đứa trẻ con của anh Alonso sẽ được uống lại sữa. 

Như thế, mỗi lần uống sữa, chúng ta sẽ không còn "cảm giác tội lỗi", sẽ không thấy những đôi mắt trẻ thơ ốm đói ở đáy ly như trong huyền thoại ngày xưa, Mỵ Nương thấy đôi mắt Trương Chi ở đáy chén trà của mình 


Chủ Nhật 27 tháng 9


Ở Chile, Nam Mỹ tình hình cũng tồi tệ không kém. Cô Sonia Gallardo đến Chile từ Peru 12 năm trước để tìm kiếm một đời sống kinh tế khá hơn. Tuy chỉ làm công việc dọn phòng cho một khách sạn lớn ở thủ đô Santiago của Chile, Sonia cũng kiếm được 600 dollars mỗi tháng, đủ để cô dành dụm tiền đủ mua một ngôi nhà tươm tất ở quê nhà Peru. 


Rồi đại dịch Tàu đến Chile, với chính sách lockdown để ngăn ngừa Coronavirus lây lan , không còn du khách đến Santiago, khách sạn không có khách, Sonia mất việc. 

Ở một quốc gia nghèo, không có trợ cấp từ Chính phủ, cô phải sinh tồn bằng cách mua đi bán lại các sản phẩm cần thiết trong mùa đại dịch : hand sanitizer, thuốc khử trùng... đã vài tháng nay. Tháng nào may mắn lắm, Sonia kiếm được 80 dollars, chỉ vừa đủ để mua thức ăn sống qua ngày.


Trước thời đại dịch, bữa ăn của Cô thường có thịt gà và cơm nấu kiểu Nam Mỹ. Trong lúc này , bữa ăn chỉ có bánh mì, bơ, và cà phê đen, không có sữa. Nhiều lúc không bán được hàng, cả ngày Cô chỉ có cà phê pha đường. Chỉ trong vài tháng, trọng lượng của Sonia giảm gần 8kg, không có tiền mua quần mới, Cô phải may thêm dây thun vào quần.


Sonia đã trả lời phỏng vấn với khuôn mặt buồn thiu: "Tôi chưa bao giờ nghĩ là tôi phải trở lại cuộc sống như thời tôi vẫn còn ở Peru"


Trong mắt người phụ nữ còn trẻ này, Coronavirus là một con quái vật lấy đi công việc, và nguồn sống của Cô. Sonia không quan tâm đến vaccine, đến hơn 34 triệu người đủ màu da trên thế giới đã nhiễm cúm Vũ Hán, đến hơn một triệu người đã bị mất mạng vì Coronavirus.

Cô chỉ mong đại dịch chấm dứt để người ta được đi lại tự do, để cái khách sạn Cô làm có khách, và Cô có công việc, có tiền gởi về nuôi Mẹ ở quê nhà Peru. Chỉ đơn giản như thế!

Có những điều rất bình thường trong tầm tay bỗng dưng trở thành một ước mơ trong thời đại dịch.


Nguyễn Trần Diệu Hương

Trung Thu 2020

Như nén tâm hương tưởng nhớ NQK8 Trần Hữu Phúc @Stuttgart, Germany


Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.