Hôm nay,  

Chiến Trận

19/03/202109:30:00(Xem: 3863)


Mẹ nói:


“Không ngờ, mẹ có được một đứa con là bác sĩ rất kiên cường.”


“Con không biết mình có kiên cường không Mẹ à!”


Đôi mắt Ái chớp nhanh để ngăn nỗi xúc động. Ái lảng sang chuyện khác:


“Mẹ ơi! Sao Mẹ lại mong có con làm bác sĩ hở Mẹ?”


“Mẹ không vì giàu, vì danh, mà chỉ vì Mẹ nặng một lòng biết ơn các bác sĩ. Nói chung là bác sĩ, y tá và những người làm trong ngành Y con ạ!”


“Mẹ nói đúng. Nếu không có y tá và các nhân viên khác, thì bác sĩ khó lòng làm tròn công việc của mình.”


Ái mang đĩa thức ăn của mình về bàn. Cái bàn ăn khá rộng, hai mẹ con ngồi hai đầu. Hình như đã thành một thói quen rồi, không ngồi kế bên nhau như trước kia. Hai chữ “cách ly” có ý nghĩa như một hành động vì an toàn, không phải nghĩa xa cách tình cảm. Con người thật lạ, Ái nghĩ vậy. Kho tự điển không có thêm chữ mới, mà có thêm nghĩa mới.


Trong bữa cơm hiếm hoi được ngồi cùng nhau, mẹ và Ái ôn lại chuyện một năm qua. Thế mà đã được một năm! Một năm thay đổi hẳn cuộc sống của mọi người! Thế giới có hơn 100 triệu người mắc bệnh, hơn 2 triệu rưỡi người tử vong. Những con số biết nói. Mỗi con số nhích lên là một sinh mạng!


Mẹ nói với giọng bâng khuâng:


“Từ khi còn nhỏ, mẹ đã có ý nghĩ quý trọng những vị bác sĩ. Ngày xưa, ở xứ mình, đa số người ta chỉ đến bác sĩ khi bị bệnh thật nặng. Do đó, vị bác sĩ được coi như ông tiên hay bà tiên cứu sống mình vậy. Hồi năm tuổi, con bị bệnh sốt xuất huyết. Thời đó, bệnh sốt xuất huyết và bệnh bại liệt là nỗi kinh hoàng của các bậc cha mẹ. Bệnh bại liệt thì có vaccine để ngừa, nhưng sốt xuất huyết thì không. Hôm mẹ ở với con trong phòng cấp cứu của bệnh viện Nhi Đồng, mẹ tận mắt chứng kiến một đêm không ngủ. Các bác sĩ, y tá, nhân viên và các sinh viên Y Khoa thực tập làm việc không ngừng tay. Họ cũng như những người mẹ theo dõi từng giọt dịch truyền, từng nấc lên xuống trên nhiệt kế đo thân nhiệt của những đứa con đang nóng sốt.”


“Mẹ, chỉ khi con ra trường, con mới biết là Mẹ thích có con làm bác sĩ.”


Mẹ cười:


“Thì bởi vì Mẹ không muốn tạo áp lực cho các con, Mẹ muốn các con tự do chọn ngành mình theo học. Điều Mẹ muốn, Mẹ không nói khiến các con khó nghĩ.”


“Hi hi, Mẹ đúng là bà mẹ tân thời.”


“Mẹ chưa già mà lị!”


Ái nghe cảm động. Hiếm hoi có một bữa cơm Ái được ngồi ăn thức ăn do Mẹ nấu. Ngày nào cũng là những ngày vội vã. Có được phút nào thong thả là ngủ vùi cho lại sức rồi lại vội vã ra đi. Mà cũng đâu phải lúc nào Mẹ cũng có thì giờ kể chuyện ngày xưa như hôm nay. Công việc của Mẹ cũng bộn bề…


“Lúc đó con còn nhỏ quá, nhưng con vẫn nhớ tới bây giờ, ngày con mê man trong bệnh viện. Con thấy đủ loại giấc mơ, có lẽ vì do sốt cao quá. Có lần thức giấc, con thấy ông bác sĩ đang khám bệnh cho con. Con tưởng như ông ấy là một ông tiên áo trắng…”


“Thì là ông tiên thật đó! Cả bệnh viện ai cũng mến phục ông. Nhưng ông ăn nói rất thẳng thắn. Ông sẵn lòng chê trách những bà mẹ coi thường lời căn dặn của ông. Căn bệnh sốt xuất huyết rất tai ác, con ạ! Nó lấy mạng sống của nhiều trẻ con.”


Rồi Mẹ rơm rớm nước mắt, nhắc đến một vị bác sĩ có con chết vì bệnh này. Đứa bé nằm giường ngay bên cạnh giường của Ái. Trước khi chết, đứa bé còn nói líu lo. Người cha bác sĩ đau lòng vì con, nhưng khi rời phòng bệnh, ông vẫn trấn an các bậc mẹ cha và chúc lành cho các cháu ở lại.


Còn một khía cạnh khác mà Mẹ thường không muốn nhớ, đó là đời sống của con người trong hoàn cảnh xã hội lao đao. Có người nói rằng tiền bác sĩ lãnh được sau một cuộc giải phẫu chỉ ăn được tô phở, hoặc chua chát hơn, so sánh một “ca” mổ ruột, bác sĩ lãnh tiền không bằng một người thợ vá một cái ruột xe. Có vẻ phóng đại quá chăng? Nhưng đó là thực tế. Nhiều vị làm trong ngành Y không ngần ngại nhận bao lì xì trước khi làm nhiệm vụ. Xã hội tập cho họ có thói quen như vậy, lâu dần trở thành một nhu cầu không thể thiếu. Nhưng may mắn thay, vẫn còn những người không để mất lòng tự trọng, vẫn không để mất phẩm giá, không lao theo thời trang.


“Ngược về trước nhiều năm, có những hình ảnh làm Mẹ ghi nhớ lắm con ạ! Hồi đi học, Mẹ có lúc đến thăm thương bệnh binh. Mẹ nhìn mấy ông bác sĩ quân y, thấy cũng hơi sợ, vì trông các ông nghiêm nghị, khắc khổ lắm. Có lẽ vì thường xuyên ra trận, đối diện với cái sống chết trong gang tấc của những người lính, nên ít khi các ông cười.”


“Thật vậy hở Mẹ?”


“Ừ. Vậy chứ mấy ông cũng tình cảm lắm, chỉ có điều là họ giấu thôi! Một lần tình cờ Mẹ thấy ông bác sĩ quân y rơi nước mắt khi một người thương binh đau quá khóc gọi mẹ của anh ấy. Nỗi đau của con người, dù là tinh thần hay thể xác, không ai gánh giùm ai được.”


Ái khẽ nói:


“Con đi đây Mẹ!”


“Lại đi hở con?”


“Dạ. Số người nhiễm có giảm, nhưng người ta vẫn chết vì bệnh này. Tụi con còn mệt nhiều.”


Mẹ lắc đầu, mắt trĩu nặng. Mẹ dặn dò như mọi lần:


“Con cẩn thận.”


“Mẹ cũng vậy nhé! Có ai đến, Mẹ nhớ mang mask vào rồi hãy nói chuyện.”


“Mẹ biết. Con này, Mẹ không hiểu sao, chỉ một việc đơn giản như vậy, bảo vệ mình, bảo vệ người, mà nhiều người không muốn làm.”


Ái thở dài:


“Họ có cái lý của họ. Họ nghĩ đó là cái quyền của họ mang mask hay không. Họ không sống trong hoàn cảnh những người bị bệnh. Họ không thông cảm cho những người phải làm việc như tụi con.”


Ái rùng mình. Phải, một năm trôi qua như cơn ác mộng! Nhiều người cho đến lúc bệnh nặng rồi, vẫn không tin tại sao mình bị bệnh. Họ nói họ không tiếp xúc với ai, vậy con virus từ đâu mà đến? Không chỉ người già hay người suy yếu vì có sẵn bệnh, mà cả thanh niên tràn đầy sức sống cũng mắc bệnh. Làm việc trong phòng ICU, Ái như người đồng hành với bệnh nhân giành giật sự sống. Khi thất bại, Ái như cũng đồng hành với họ trong lúc họ ra đi. Rồi Ái phải đứng lại. Họ đi một mình.


Một lần, Ái ngồi bên người bệnh là một ca sĩ. Ai biết được đàng sau mớ dây nhợ và ống thở, là một giọng hát thanh tao! Cô có vẻ muốn hát. Nhưng đã hết! Tiếng chim ríu rít quyến rũ đã được thay bằng tiếng thở khò khè, và lịm dần như ánh nến leo lét chìm vào vũng tối. Một lần, Ái ngồi bên người bệnh là một nhà thơ. Những ngón tay run run cử động như muốn viết. Nhà thơ không còn đủ tỉnh táo để mơ mộng. Tất cả chung quanh nhà thơ chỉ là một tấm màn u uất. Trong những ngày căng thẳng cao độ, Ái chứng kiến cảnh phòng bệnh với những dãy giường mới mang tới, chính là garage đậu xe của bệnh viện, cảnh hàng dài những xe cứu thương chờ chuyển bệnh nhân vào phòng cấp cứu nhưng không còn chỗ, phải chờ cả mấy tiếng đồng hồ. Thương tâm hơn nữa, nhà xác cũng hết chỗ. Thi hài của những người chết đã được gói kín, sắp xếp lên các ngăn kệ của phòng lạnh dã chiến, có khi là trên những chiếc xe vận tải lạnh. Họ nằm chật chội, lớp lớp, hàng hàng… 


Phải, một năm trôi qua như cơn ác mộng. Chết vì Covid có đáng hay không? Không đáng chút nào. Nhưng nhiều người đã chết. Cuối Tháng Hai, nước Mỹ đã mất nửa triệu người.


Có nhiều lúc Ái không dám nhìn mình trong gương. Mở chiếc “khẩu trang” ra, Ái choáng váng vì dưới hai mắt và hai bên má của mình như bị biến dạng: kết quả của việc thường trực đeo mask ngày cũng như đêm. Những phiên trực làm mặt mũi xanh xao. Hết trực, Ái phờ phạc tìm đến giấc ngủ, hy vọng lấy lại sức lực. Nhưng trái lại, Ái rơi vào tình trạng mất ngủ kinh niên. Ái sợ rằng mình rồi cũng sẽ mắc bệnh!


Một người bạn khá thân chia sẻ rằng bạn được làm việc ở nhà, vì công việc văn phòng có thể mang về nhà, không cần đến sở. Bạn tỏ ý lo ngại cho Ái. “Ái ơi, mình biết “work from home” là may mắn lắm. Có những việc không thể làm ở nhà, như Ái đó! Ái đối diện với mối nguy hiểm từng giờ.” Bạn cũng giả dụ nếu có thể chọn lựa, bạn thà chết vì đau tim hơn là chết vì COVID Bạn nói đúng. Cái chết vì COVID đau khổ biết bao! Người chết vì COVID cô đơn biết chừng nào!


Vẫn như có sẵn định mệnh cho từng người, không ai chọn lựa được đâu! Ai mà biết được mình sẽ chết vì cái gì, chết lúc nào và chết ra sao? Có lẽ vì đã chứng kiến quá nhiều người chết nên Ái có một cách nghĩ cho riêng mình. Đó là làm việc bằng tinh thần của một người lính. Giường bệnh là chiến trận. Người lính chỉ có một con đường là chiến đấu. Khi bại trận, người lính ngồi ôm mặt khóc. Khi chiến thắng, chào tạm biệt bệnh nhân xuất viện bằng tiếng vỗ tay và lời reo mừng. Mạng sống con người vẫn luôn quý giá!


Ái khẽ nói:


“Con đi đây Mẹ!”


“Ừ, con đi.”


Ái cười:


“Mẹ yên tâm, không đến nỗi như trước đâu! Mình đã được chích vaccine rồi.”


Mẹ gật đầu, nét mặt Mẹ vui:


“Phải, cơ thể của mình đang “sản xuất” chiến binh để chống giặc. Nói ráng một chút con nghe, ngày xưa, con nít như Mẹ làm quen với vaccine lần đầu trong đời là “trồng trái” để ngừa bệnh đậu mùa. Eo ơi, người ta dùng cái ngòi bút thấm thuốc rạch lên da mình mấy vết nghe ớn. Ai cũng lãnh sẹo vì “trồng trái” để khỏi bị cái bệnh tai ác đó. Có người còn bị mưng mủ, hành lên hành xuống. Dân mình nghe chích vaccine là mừng lắm. Họ biết tin tưởng vào khoa học. Chưa bao giờ nghe nói đến chuyện chống vaccine.”


Hai mẹ con không hẹn mà cùng thở dài, rồi cùng cười.


“Con đi đây!”


Biết trước rằng khi vào bệnh viện, Ái lại cũng sẽ đối diện với những cảnh ngộ đau lòng. Tuy vậy, tâm trạng có phần nhẹ nhàng hơn trước, với ý nghĩ mình đã có “cái nhà máy sản xuất chiến binh chống giặc” trong người. Có một chút hy vọng! Lúc trước, đi ra khỏi nhà cũng là như người lính đi ra mặt trận, nhưng chuẩn bị tâm lý sẵn sàng. Có khi không được về nhà vì phải “cách ly” đúng nghĩa. Cũng có thể mãi không được về.


Cuối Tháng Hai, 2021

Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
Cuối tháng Ba, những cơn gió nóng tràn về thành phố. Một hai trận mưa lạc loài đến sớm rồi thôi. Không khí ngột ngạt. Mùi đất nồng khó chịu. Như một cô gái uể oải trong cơn bệnh, thành phố trông mệt mỏi, rạc rời. Đoan đi vào Câu lạc bộ của trường. Bình thường, cứ đến thứ Sáu là không khí chuẩn bị cho chiều văn nghệ thứ Bảy lại nhộn nhịp. Nhưng hôm nay, như có một cái gì kéo mọi thứ chùng xuống. Chị Thuận, người phụ trách Câu lạc bộ, mỉm cười khi thấy Đoan, nhưng là một nụ cười kém tươi. Chị vẫn câu chào hỏi thường lệ: “Em uống gì không?” “Dạ, chị cho em nước chanh.” Chị Thuận pha ly nước chanh đặc biệt, nóng, ít đường, mang đến để trước mặt Đoan, và kéo ghế ngồi xuống bên Đoan. Hình như không có gì để bắt chuyện, chị Thuận nhìn ra sân, nói nhỏ:
Tôi khép cánh cửa phòng ngủ, rón rén bước ra, sợ gây tiếng động làm thằng cháu nội lại giật mình thức giấc; thằng bé đã mười tháng tuổi, biết làm đủ thứ trò như con khỉ con, chiếc mũi bé xíu của nó chun lại, đôi môi dầy cong lên, mỗi khi bà nội bảo nó làm xấu, thật dễ thương, canh nó hơi mệt vì phải chơi cho nó đừng chán, lèo nhèo, nhưng chơi nhiều thì sức bà nội có hạn, làm sao chạy theo nó cả ngày được!
Những cái mặt hướng về phía trước. Những cái đầu hơi cúi, những cái lưng hơi còng có lẽ bởi sức nặng của chiếc ba lô đeo sau lưng, hay tại - nói một cách màu mè, văn vẻ, đầy giả dối là - gánh nặng của đời sống. Trước mặt tối đen. Bên phải là những cánh cửa cuộn bằng tôn đóng kín. Những cánh cửa lạnh lùng, vô cảm; lầm lì từ khước, âm thầm xua đuổi. Dưới chân là nền xi măng. Cứng và lạnh. Không thể là nơi tạm dừng chân, nghỉ mệt. Sâu vào phía sát vách là nền lót những viên gạch vuông. Không một cọng rác. Không một bóng chó hoang, mèo lạc. Không cả những hình hài vô gia cư bó gối vẩn vơ nhìn nhân gian qua lại.
Đức hạnh cao quý thể hiện thành tâm vô phân biệt. Tâm vô phân biệt tạo thành một sự bình đẳng tuyệt đối trong giáo pháp của đức phật. Giáo pháp thâm sâu vi diệu của Như Lai thì không phải ai cũng hiểu hết, cũng ngộ được điều đó đa phần các vị đại trí thấu đạt. Còn lòng từ bi của phật thì lan tỏa vô phân biệt như ánh sáng mặt trời soi sáng khắp nơi nơi, như mưa rơi tắm mát đại ngàn. Những lời giảng dậy trên đây được dẫn chứng nhiều và rõ nhứt là ở phật giáo Tây Tạng.
Anh Hai của tôi, sau chuyến vượt biên thất bại, bị giam ở nhà tù Bình Đại Bến Tre chín tháng, khi trở lại trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ mới biết đã bị cắt hộ khẩu, mất việc làm, bèn quay về Sài Gòn sống tạm với gia đình, chờ cơ hội vượt biên tiếp theo. Một hôm, anh bị cơn sốt rét tái phát hành hạ, (hậu quả của những ngày trong trại giam), cần phải đến bệnh viện chữa trị, nhưng hộ khẩu không có, anh bèn mượn cái Sổ Sức Khỏe của thằng cháu (con bà chị họ ở kế bên nhà), để đi khám bệnh
Năm đó, tôi qua Arlington,Texas thăm gia đình, rồi ghé Dallas thăm người hàng xóm cũ thân thiết từ khi còn ở Việt Nam . Chú Thím ấy đónvợ chồng tôi nồng hậu như mọi khi, bữa ăn đặc sản món Huế như tôi yêu cầu, sau đó kéo nhau ra phòng khách ăn bánh uống trà . Rồi Thím gọi cháu ngoại: - Thiên Ân ơi, ra đây ca hát cho hai bác Canada nghe đi con.-Cô bé hai, ba tuổi tung tăng ngoan ngoãn khoanh tay chào chúng tôi, rồi bạo dạn chạy ra giữa phòng, tay giả bộ cầm micro phone, rồi nhún nhảy tự nhiên hát một bài hát Tiếng Việt thật rõ ràng .
Ngày xưa rất xa xưa, ở vùng quê thôn dã, người dân sống giản dị, đơn sơ, mộc mạc; người ta trồng tỉa những vườn rau cải, vườn ngô, vườn cà… lấy hoa lợi để sống. Thường thường có chim chóc kiếm ăn đến phá phách, dãi dãi, mổ mổ những hạt mới ươm trồng hay những nụ hoa mới ra, chúng ăn, với con người trồng tỉa lấy hoa lợi là chúng nghịch ngợm và phá hoại, ăn khín. Mới đầu chúng đến một vài con, sau rủ nhau đến nhiều hơn, cả nhà cả đàn chim chóc… và người gia chủ trồng tỉa phải tìm cách bảo vệ hoa màu của họ, nguồn sống của họ.
Người đàn bà với tay kéo tấm bạt vải phủ hai mặt bàn thấp và lổng chổng mấy cái ghế úp lại phía trên. Buổi chiều tháng chín nhả vài vệt nắng vàng sậm trên mấy lùm cây mắm khẳng khiu mọc hoang dại bên hông. Căn nhà chia làm hai, phía trên mặt lộ làm quán lộ thiên, phần còn lại là căn nhà sàn nằm doi ra mặt bờ kinh Cụt. Mặt quán cũng được biến dạng mỗi ngày. Sáng có cà-phê, hàng xôi và thuốc lá. Buổi trưa là quán cơm bình dân cho đám khách hàng chợ Giữa, đến từ các huyện xa xôi. Tối đến, chỉ còn vỏn vẹn thùng thuốc lá bán lẻ. Tất cả sinh hoạt biến dạng dưới bàn tay của người đàn bà và đứa con gái nhỏ. Người ta nhìn thấy trong đôi mắt nâu đen của hai má con in đậm hình ảnh căn nhà chật chội, bày biện lượm thượm những ghế bàn buồn bã, lạnh lùng. Bóng dáng người đàn bà và bếp lửa áo cơm, vẫn không đủ vẽ lên khung cảnh đầm ấm của một gia đình. Đứa con gái mười bốn tuổi, giống má, lầm lũi như chiếc bóng trong nhịp đời hờ hững.
Ai cũng có những hoài niệm mang theo cả cuộc đời, hoài niệm ngày càng nhiều theo tuổi tác dâng lên, người may mắn có nhiều hoài niệm vui hơn buồn để khi chợt nhớ thấy lòng vui vui. Ai cũng có những ước mơ thầm kín để khi hoài niệm thấy mình còn là người, giả như ước mơ cho người yêu cũ có cuộc sống hạnh phúc. Điều ấy nói ra ai tin nên xếp vào ước mơ thầm kín, còn những ước mơ nói ra được chỉ là hoang tưởng nhất thời như thấy chiếc xe đẹp lướt qua, ước gì mình có chiếc xe ấy. Nhưng giả sử ngày mai trúng số, có tiền mua chiếc xe ấy thì ước mơ nói ra được hôm qua đã thay đổi thành chiếc xe mắc tiền hơn nữa và đẹp hơn nữa vì là chiếc xe của hôm nay, của người mới trúng số. Khác với ước mơ thầm kính vui buồn riêng mang coi vậy mà theo ta như hình với bóng, càng thầm kín càng bền lâu sau nỗi buồn chia xa đã gặm nhấm tâm can theo tháng ngày, nghe tin người xưa không hạnh phúc thì nỗi buồn tăng lên gấp đôi nhưng nói ra ai tin trong trời đất bao la này…
Truyện HOÀNG CHÍNH - Thứ Mùa Màng Không Có Thật


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.