Hôm nay,  

Chiến Trận

19/03/202109:30:00(Xem: 3864)


Mẹ nói:


“Không ngờ, mẹ có được một đứa con là bác sĩ rất kiên cường.”


“Con không biết mình có kiên cường không Mẹ à!”


Đôi mắt Ái chớp nhanh để ngăn nỗi xúc động. Ái lảng sang chuyện khác:


“Mẹ ơi! Sao Mẹ lại mong có con làm bác sĩ hở Mẹ?”


“Mẹ không vì giàu, vì danh, mà chỉ vì Mẹ nặng một lòng biết ơn các bác sĩ. Nói chung là bác sĩ, y tá và những người làm trong ngành Y con ạ!”


“Mẹ nói đúng. Nếu không có y tá và các nhân viên khác, thì bác sĩ khó lòng làm tròn công việc của mình.”


Ái mang đĩa thức ăn của mình về bàn. Cái bàn ăn khá rộng, hai mẹ con ngồi hai đầu. Hình như đã thành một thói quen rồi, không ngồi kế bên nhau như trước kia. Hai chữ “cách ly” có ý nghĩa như một hành động vì an toàn, không phải nghĩa xa cách tình cảm. Con người thật lạ, Ái nghĩ vậy. Kho tự điển không có thêm chữ mới, mà có thêm nghĩa mới.


Trong bữa cơm hiếm hoi được ngồi cùng nhau, mẹ và Ái ôn lại chuyện một năm qua. Thế mà đã được một năm! Một năm thay đổi hẳn cuộc sống của mọi người! Thế giới có hơn 100 triệu người mắc bệnh, hơn 2 triệu rưỡi người tử vong. Những con số biết nói. Mỗi con số nhích lên là một sinh mạng!


Mẹ nói với giọng bâng khuâng:


“Từ khi còn nhỏ, mẹ đã có ý nghĩ quý trọng những vị bác sĩ. Ngày xưa, ở xứ mình, đa số người ta chỉ đến bác sĩ khi bị bệnh thật nặng. Do đó, vị bác sĩ được coi như ông tiên hay bà tiên cứu sống mình vậy. Hồi năm tuổi, con bị bệnh sốt xuất huyết. Thời đó, bệnh sốt xuất huyết và bệnh bại liệt là nỗi kinh hoàng của các bậc cha mẹ. Bệnh bại liệt thì có vaccine để ngừa, nhưng sốt xuất huyết thì không. Hôm mẹ ở với con trong phòng cấp cứu của bệnh viện Nhi Đồng, mẹ tận mắt chứng kiến một đêm không ngủ. Các bác sĩ, y tá, nhân viên và các sinh viên Y Khoa thực tập làm việc không ngừng tay. Họ cũng như những người mẹ theo dõi từng giọt dịch truyền, từng nấc lên xuống trên nhiệt kế đo thân nhiệt của những đứa con đang nóng sốt.”


“Mẹ, chỉ khi con ra trường, con mới biết là Mẹ thích có con làm bác sĩ.”


Mẹ cười:


“Thì bởi vì Mẹ không muốn tạo áp lực cho các con, Mẹ muốn các con tự do chọn ngành mình theo học. Điều Mẹ muốn, Mẹ không nói khiến các con khó nghĩ.”


“Hi hi, Mẹ đúng là bà mẹ tân thời.”


“Mẹ chưa già mà lị!”


Ái nghe cảm động. Hiếm hoi có một bữa cơm Ái được ngồi ăn thức ăn do Mẹ nấu. Ngày nào cũng là những ngày vội vã. Có được phút nào thong thả là ngủ vùi cho lại sức rồi lại vội vã ra đi. Mà cũng đâu phải lúc nào Mẹ cũng có thì giờ kể chuyện ngày xưa như hôm nay. Công việc của Mẹ cũng bộn bề…


“Lúc đó con còn nhỏ quá, nhưng con vẫn nhớ tới bây giờ, ngày con mê man trong bệnh viện. Con thấy đủ loại giấc mơ, có lẽ vì do sốt cao quá. Có lần thức giấc, con thấy ông bác sĩ đang khám bệnh cho con. Con tưởng như ông ấy là một ông tiên áo trắng…”


“Thì là ông tiên thật đó! Cả bệnh viện ai cũng mến phục ông. Nhưng ông ăn nói rất thẳng thắn. Ông sẵn lòng chê trách những bà mẹ coi thường lời căn dặn của ông. Căn bệnh sốt xuất huyết rất tai ác, con ạ! Nó lấy mạng sống của nhiều trẻ con.”


Rồi Mẹ rơm rớm nước mắt, nhắc đến một vị bác sĩ có con chết vì bệnh này. Đứa bé nằm giường ngay bên cạnh giường của Ái. Trước khi chết, đứa bé còn nói líu lo. Người cha bác sĩ đau lòng vì con, nhưng khi rời phòng bệnh, ông vẫn trấn an các bậc mẹ cha và chúc lành cho các cháu ở lại.


Còn một khía cạnh khác mà Mẹ thường không muốn nhớ, đó là đời sống của con người trong hoàn cảnh xã hội lao đao. Có người nói rằng tiền bác sĩ lãnh được sau một cuộc giải phẫu chỉ ăn được tô phở, hoặc chua chát hơn, so sánh một “ca” mổ ruột, bác sĩ lãnh tiền không bằng một người thợ vá một cái ruột xe. Có vẻ phóng đại quá chăng? Nhưng đó là thực tế. Nhiều vị làm trong ngành Y không ngần ngại nhận bao lì xì trước khi làm nhiệm vụ. Xã hội tập cho họ có thói quen như vậy, lâu dần trở thành một nhu cầu không thể thiếu. Nhưng may mắn thay, vẫn còn những người không để mất lòng tự trọng, vẫn không để mất phẩm giá, không lao theo thời trang.


“Ngược về trước nhiều năm, có những hình ảnh làm Mẹ ghi nhớ lắm con ạ! Hồi đi học, Mẹ có lúc đến thăm thương bệnh binh. Mẹ nhìn mấy ông bác sĩ quân y, thấy cũng hơi sợ, vì trông các ông nghiêm nghị, khắc khổ lắm. Có lẽ vì thường xuyên ra trận, đối diện với cái sống chết trong gang tấc của những người lính, nên ít khi các ông cười.”


“Thật vậy hở Mẹ?”


“Ừ. Vậy chứ mấy ông cũng tình cảm lắm, chỉ có điều là họ giấu thôi! Một lần tình cờ Mẹ thấy ông bác sĩ quân y rơi nước mắt khi một người thương binh đau quá khóc gọi mẹ của anh ấy. Nỗi đau của con người, dù là tinh thần hay thể xác, không ai gánh giùm ai được.”


Ái khẽ nói:


“Con đi đây Mẹ!”


“Lại đi hở con?”


“Dạ. Số người nhiễm có giảm, nhưng người ta vẫn chết vì bệnh này. Tụi con còn mệt nhiều.”


Mẹ lắc đầu, mắt trĩu nặng. Mẹ dặn dò như mọi lần:


“Con cẩn thận.”


“Mẹ cũng vậy nhé! Có ai đến, Mẹ nhớ mang mask vào rồi hãy nói chuyện.”


“Mẹ biết. Con này, Mẹ không hiểu sao, chỉ một việc đơn giản như vậy, bảo vệ mình, bảo vệ người, mà nhiều người không muốn làm.”


Ái thở dài:


“Họ có cái lý của họ. Họ nghĩ đó là cái quyền của họ mang mask hay không. Họ không sống trong hoàn cảnh những người bị bệnh. Họ không thông cảm cho những người phải làm việc như tụi con.”


Ái rùng mình. Phải, một năm trôi qua như cơn ác mộng! Nhiều người cho đến lúc bệnh nặng rồi, vẫn không tin tại sao mình bị bệnh. Họ nói họ không tiếp xúc với ai, vậy con virus từ đâu mà đến? Không chỉ người già hay người suy yếu vì có sẵn bệnh, mà cả thanh niên tràn đầy sức sống cũng mắc bệnh. Làm việc trong phòng ICU, Ái như người đồng hành với bệnh nhân giành giật sự sống. Khi thất bại, Ái như cũng đồng hành với họ trong lúc họ ra đi. Rồi Ái phải đứng lại. Họ đi một mình.


Một lần, Ái ngồi bên người bệnh là một ca sĩ. Ai biết được đàng sau mớ dây nhợ và ống thở, là một giọng hát thanh tao! Cô có vẻ muốn hát. Nhưng đã hết! Tiếng chim ríu rít quyến rũ đã được thay bằng tiếng thở khò khè, và lịm dần như ánh nến leo lét chìm vào vũng tối. Một lần, Ái ngồi bên người bệnh là một nhà thơ. Những ngón tay run run cử động như muốn viết. Nhà thơ không còn đủ tỉnh táo để mơ mộng. Tất cả chung quanh nhà thơ chỉ là một tấm màn u uất. Trong những ngày căng thẳng cao độ, Ái chứng kiến cảnh phòng bệnh với những dãy giường mới mang tới, chính là garage đậu xe của bệnh viện, cảnh hàng dài những xe cứu thương chờ chuyển bệnh nhân vào phòng cấp cứu nhưng không còn chỗ, phải chờ cả mấy tiếng đồng hồ. Thương tâm hơn nữa, nhà xác cũng hết chỗ. Thi hài của những người chết đã được gói kín, sắp xếp lên các ngăn kệ của phòng lạnh dã chiến, có khi là trên những chiếc xe vận tải lạnh. Họ nằm chật chội, lớp lớp, hàng hàng… 


Phải, một năm trôi qua như cơn ác mộng. Chết vì Covid có đáng hay không? Không đáng chút nào. Nhưng nhiều người đã chết. Cuối Tháng Hai, nước Mỹ đã mất nửa triệu người.


Có nhiều lúc Ái không dám nhìn mình trong gương. Mở chiếc “khẩu trang” ra, Ái choáng váng vì dưới hai mắt và hai bên má của mình như bị biến dạng: kết quả của việc thường trực đeo mask ngày cũng như đêm. Những phiên trực làm mặt mũi xanh xao. Hết trực, Ái phờ phạc tìm đến giấc ngủ, hy vọng lấy lại sức lực. Nhưng trái lại, Ái rơi vào tình trạng mất ngủ kinh niên. Ái sợ rằng mình rồi cũng sẽ mắc bệnh!


Một người bạn khá thân chia sẻ rằng bạn được làm việc ở nhà, vì công việc văn phòng có thể mang về nhà, không cần đến sở. Bạn tỏ ý lo ngại cho Ái. “Ái ơi, mình biết “work from home” là may mắn lắm. Có những việc không thể làm ở nhà, như Ái đó! Ái đối diện với mối nguy hiểm từng giờ.” Bạn cũng giả dụ nếu có thể chọn lựa, bạn thà chết vì đau tim hơn là chết vì COVID Bạn nói đúng. Cái chết vì COVID đau khổ biết bao! Người chết vì COVID cô đơn biết chừng nào!


Vẫn như có sẵn định mệnh cho từng người, không ai chọn lựa được đâu! Ai mà biết được mình sẽ chết vì cái gì, chết lúc nào và chết ra sao? Có lẽ vì đã chứng kiến quá nhiều người chết nên Ái có một cách nghĩ cho riêng mình. Đó là làm việc bằng tinh thần của một người lính. Giường bệnh là chiến trận. Người lính chỉ có một con đường là chiến đấu. Khi bại trận, người lính ngồi ôm mặt khóc. Khi chiến thắng, chào tạm biệt bệnh nhân xuất viện bằng tiếng vỗ tay và lời reo mừng. Mạng sống con người vẫn luôn quý giá!


Ái khẽ nói:


“Con đi đây Mẹ!”


“Ừ, con đi.”


Ái cười:


“Mẹ yên tâm, không đến nỗi như trước đâu! Mình đã được chích vaccine rồi.”


Mẹ gật đầu, nét mặt Mẹ vui:


“Phải, cơ thể của mình đang “sản xuất” chiến binh để chống giặc. Nói ráng một chút con nghe, ngày xưa, con nít như Mẹ làm quen với vaccine lần đầu trong đời là “trồng trái” để ngừa bệnh đậu mùa. Eo ơi, người ta dùng cái ngòi bút thấm thuốc rạch lên da mình mấy vết nghe ớn. Ai cũng lãnh sẹo vì “trồng trái” để khỏi bị cái bệnh tai ác đó. Có người còn bị mưng mủ, hành lên hành xuống. Dân mình nghe chích vaccine là mừng lắm. Họ biết tin tưởng vào khoa học. Chưa bao giờ nghe nói đến chuyện chống vaccine.”


Hai mẹ con không hẹn mà cùng thở dài, rồi cùng cười.


“Con đi đây!”


Biết trước rằng khi vào bệnh viện, Ái lại cũng sẽ đối diện với những cảnh ngộ đau lòng. Tuy vậy, tâm trạng có phần nhẹ nhàng hơn trước, với ý nghĩ mình đã có “cái nhà máy sản xuất chiến binh chống giặc” trong người. Có một chút hy vọng! Lúc trước, đi ra khỏi nhà cũng là như người lính đi ra mặt trận, nhưng chuẩn bị tâm lý sẵn sàng. Có khi không được về nhà vì phải “cách ly” đúng nghĩa. Cũng có thể mãi không được về.


Cuối Tháng Hai, 2021

Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.