Hôm nay,  

Viết Báo

18/07/202500:00:00(Xem: 2064)
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.

in typo
Máy in typo

Đầu tiên bài báo được thảy cho thợ xếp chữ. Ngày tôi bắt đầu viết báo ở Sài Gòn tất cả các báo vẫn còn in theo  lối typo. Thợ sắp chữ lựa từng con chữ bằng hợp kim, dùng một chiếc kẹp xếp vào một cái khuôn đúng kích thước một cột báo. Cái khó là họ phải sắp ngược chữ. Muốn biết ngược ra sao, chúng ta có thể để một trang báo trước gương rồi nhìn vào gương. Không quen không đọc được. Có đọc được thì cái đầu sẽ nhức như búa bổ. Thợ sắp chữ phải học để có thể đọc ngược một cách thành thạo. Xếp xong phần bài báo được giao phó, giao cho ông sếp thợ chữ, gọi là sếp typo. Ông này dùng mực quét lên bề mặt và ịn vào một tờ giấy thấm mực. Bài báo trở lại chữ xuôi như thường. Bản in này được đưa lên ông thầy cò để sửa. Ông thầy cò nhìn vào bản viết tay của bài báo so với bản vỗ để sửa từng chữ từng câu, từng cái dấu chấm dấu phẩy. Cái khó của ông thầy cò là đọc cho ra bản viết của tác giả. Ngày đó người viết đa số viết bằng tay. Mỗi người một kiểu chữ, rồng bay phượng múa hay chân chỉ hạt bột, mỗi ông một trường phái, điểm chung là chữ viết thường rất khó đọc. Gặp bài của mấy ông bác sĩ chỉ có nước khóc ròng. Chẳng lẽ mang ra tiệm thuốc tây nhờ các ông dược sĩ đọc giùm! Đọc không thông thì đoán, may ra thì trúng, không may thì trật, trúng là hồng phúc, trật thì bị nghe cằn nhằn khi báo phát hành. Tôi khởi viết trên bán nguyệt san Thời Nay từ thời còn là sinh viên. Cuối tuần tôi hay la cà tới tòa báo để nhậu nhẹt. Chẳng có chầu nhậu nào mà không bị ông Hoài Thương, thầy cò ngày đó, nắm áo hỏi chữ này chữ kia. Lúc đó tôi cun cút đọc lại bản thảo của mình, chỉ chữ sửa đúng mà không dám cằn nhằn vì bị phá quấy trong lúc nhậu. Bởi vì ông Hoài Thương còn ấm ức hơn, chưa rảnh để cụng ly với anh em. Đụng vào ông ấy không đúng thời điểm dễ bị xỉ vả lắm.

bang chu cai

Bảng sắp chữ ngược.


Bản sửa của ông thầy cò được ông sếp typo mang xuống nhà chữ, giao cho thợ sửa lại. Xong ông sếp typo dùng máy ép, ép bát chữ vào một khuôn bằng giấy bồi, nổi lửa nấu chì thành chất lỏng, đổ vào khuôn để tạo ra một khuôn in bằng chì. Thợ in sẽ dùng đinh đóng bản chì này vào tấm gỗ của máy in. Thường thì tại bốn góc bản chì có bốn cái lỗ để khi đóng đinh, đầu đinh không bị lồi lên. Nhưng có nhiều ông thợ in làm ẩu, để đầu đinh thòi lên, khi báo in ra có bonus hình mấy cái đầu đinh lạc lõng này. Tùy theo loại máy lớn nhỏ, mỗi bản in sẽ có kích thước khác nhau. Máy in báo Thời Nay ngày đó thuộc loại in ra được 16 trang báo khổ Thời Nay. In một mặt, lật lại in mặt thứ hai. In xong, thợ gấp báo sẽ ngồi gấp lại theo thứ tự nhất định để khi in ra trang trước tiếp nối trang sau đúng số trang. Bản gấp sẽ được đưa vào máy đóng và cắt báo, vô bìa thành tờ báo tới tay độc giả. Sau này báo chí Sài Gòn có cải tiến bằng lối in offset.

in offset

Máy in offset.


Báo Thời Nay hồi đó không có máy in offset nên tôi không rành lối in này. Đại khái đây là một kỹ thuật in trong đó hình ảnh dính mực in được ép lên các tấm cao su (còn gọi là các tấm offset) trước đó rồi mới ép từ miếng cao su này  lên giấy. Lối in này cho ra chất lượng hình ảnh rõ ràng hơn lối in typo. Mực in không dính đen tay khi đọc báo. Cách in offset không mới mẻ chi. Từ năm 1875 lối in này đã ra đời tại Anh nhưng kỹ thuật còn thô sơ nên không thực tế. Sau nhiều cải tiến, tới thập niên 1950, kỹ thuật in offset mới thông dụng. Ký giả Nguyễn Việt trong bài hồi ký “Nghề Làm Báo Trước Năm 1975”, cho biết chi tiết về việc báo chí Sài Gòn in offset: “Phải nói tờ Trắng Đen  trước 1975, là tờ báo được in offset đầu tiên tại miền Nam bấy giờ, vào năm 1971 (kể cả tuần báo, tuần san và tạp chí đang phải in typo với bản chì – mỗi bản chì nếu có nhiều antimoine cũng chỉ in khoảng 5.000 bản, là chữ đã mòn nhoè không đọc được nữa, còn mỗi bản kẽm in trên máy offset có số lượng không dưới 20.000 bản, hình ảnh chữ nghĩa rất rõ ràng dễ đọc…Thời gian này chưa ai nhập máy in offset rotative (máy in offset tự động), nên in một tờ báo có số lượng ấn hành hàng ngày trên 100.000 bản, phải sử dụng ít nhất là 10 máy in Offset bán tự động (bình quân mỗi giờ chỉ in được từ 4.000 đến 6.000 bản/mặt)…Khu nhà in ngày trước thường tập trung tại đường Phạm Ngũ Lão, Lê Lai và Võ Tánh, đa số là máy in typo hoặc được trang bị thêm máy offset đặt tay in bìa tập san, tuần san, (sau này ngành in offset chiếm hẳn thị phần, nên các khu vực trên chỉ cho thuê làm tòa soạn báo). Nhà in lớn và hiện đại lúc đó chỉ có Indeo và Nguyễn Bá Tòng còn lại chỉ thuộc loại vừa và nhỏ đều do tư nhân kinh doanh, còn khu vực in nhà nước không nhận in gia công cho tư nhân. Khi ngành in offset được tuyệt đại đa số báo chí ra ngày, tuần hay tháng đặt in, bấy giờ các chủ nhà in lại thi nhau nhập máy, như nhà in Nguyễn Tấn Đời (một nghiệp chủ ngân hàng trước khi ngồi tù vì vỡ nợ, cũng ra làm báo – tờ Việt Nam – và lập nhà in), mua về máy in offset rotative in 4 màu 8 trang đặt tại cao ốc Trần Hưng Đạo (gần khu Chợ Quán, Trần Bình Trọng), nhưng máy khai thác không hết công suất, vì tờ Việt Nam in ra không bán được. Đến một nghiệp chủ ngân hàng khác – ông Phạm Sanh – mua máy rotative về in báo mướn, đặt tại đường Hồng Thập Tự (nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai, sau này Phạm Sanh cũng đỗ nợ, vì buôn gạo cho Tổng Cục Tiếp Tế, nhà in bị trưng thu), nên khi nói về ngành in, thì từ năm 1972 trở đi miền Nam mới có những thiết bị tiên tiến hiện đại”.

Ngày đó tôi dùng bút bi viết trên giấy in báo. Mỗi khi tới tòa soạn, tôi thường lượm những giấy in lỗi, một mặt còn trắng, để viết. Không phải vì tiện tặn nhưng viết bằng bút “nguyên tử” trên giấy báo rất ăn mực. Ông Khánh Giang khi đó là Thư Ký Tòa Soạn, ngồi làm việc tại tòa báo, có sẵn chiếc máy chữ loại xách tay Olympia nên viết bằng máy chữ oai hơn. Chữ đánh máy rõ ràng hơn, rất vừa ý ông Hoài Thương, miễn là ông Khánh Giang không lười biếng thay băng mực. Có những khi băng mực gần cạn, chữ hiện lên khi trồi khi sụt, hai ông lại có dịp vặc nhau cho vui cửa vui nhà. Máy chữ hồi đó là máy chữ tây nên không thèm có dấu chữ Việt. Đánh máy xong phải ngồi dùng bút vẽ thêm dấu vào rất mất thời giờ. Thời giờ của ông Khánh Giang là…rượu nên nhiều khi, sẵn có tôi ngồi chờ nhậu, ông thảy cho tôi bỏ dấu. Một thằng viết, một thằng bỏ dấu, có khi bỏ dấu sai. Báo in ra hai ông cãi cọ, khi đó tôi không có mặt tại tòa soạn nên vô tội vì thủ phạm đang tại đào. Sau này tôi nghe nói có loại máy chữ có thể đánh dấu tiếng Việt được nhưng tôi chưa bao giờ có dịp sử dụng.

Ba thập niên sau, khi tôi viết trên đất người, có computer nên máy đánh chữ dù có thể đánh dấu hay không đều đi vào dĩ vãng. Tôi lên đời từ viết bằng bút “nguyên tử” (nghe hiện đại phát ớn!) qua thẳng computer, không thèm biết tới máy đánh chữ. Chuyện này khiến tôi loạng quạng. Năm 1990, sau thời gian 5 năm ổn định cuộc sống nơi đất mới, tôi cầm bút trở lại. Thoạt đầu, tôi viết truyện ngắn cho các báo Văn Học, Văn, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21 ở Califronia và tờ Làng Văn ở Toronto, Canada. Có computer nhưng sau bao nhiêu năm cầm bút đúng nghĩa, chỉ viết bằng bút, tôi không quen viết trên máy. Tôi gọi cái màn hình computer là “anh mặt vuông”. Nhìn cái mặt không giống ai này không ra chữ. Đành lại viết tay rồi đánh computer lại. Nhờ thế mà tới giờ tôi vẫn còn thủ bút các truyện ngắn của tôi. Nhưng từ năm 2004, khi bắt đầu viết phiếm, tôi viết thẳng vào cái anh mặt vuông. Chữ vẫn ra ào ào. Hóa ra chỉ là thói quen. Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi. Cứ bén hơi là mọi chuyện suông sẻ.

computer có nhiều cái tiện lợi so với máy đánh chữ. Thứ nhất là gõ thiếu, gõ sai, có thể xóa đi gõ lại một cách dễ dàng. Dùng máy đánh chữ, khi sai phải dùng dung dịch xóa đi vừa mất mỹ thuật vừa lích kích. Sai nhiều hoặc muốn bỏ một đoạn dài phải bỏ đi đánh lại vào một tờ giấy khác. Máy đánh chữ chỉ đánh được một bản, muốn có nhiều bản phải dùng giấy carbon và đánh mạnh tay. Cũng chỉ thêm được tối đa 5 hoặc 6 bản. Những bản sau mờ tịt không thấy rõ. Bản đánh bằng computer muốn in ra bao nhiêu bản cũng đặng. Tôi ở Montreal viết cho nhiều báo ở bên Cali. Đánh bài bằng computer, lưu lại, gửi e-mail bài đi. Báo bên Mỹ chỉ việc dàn trang in, không phải đánh máy lại lôi thôi chi.

Dùng computer có bộ gõ đánh tiếng Việt rất tiện lợi, dấu chi cũng đánh được. Các kỹ sư điện toán Việt Nam đã bỏ nhiều công sức sáng chế ra nhiều bộ gõ tiếng Việt. Bộ gõ WinVNKey, OpenKey, TocKyVNKey, GoTiengViet, VietKey, EVKey. Tôi chỉ dùng VNI trước đây và Unikey bây giờ nên chỉ biết hai bộ gõ này.

ho thanh viet
Ông Hồ Thanh Việt - cha đẻ của font chữ VNI

Kiểu gõ và bộ chữ VNI do kỹ sư Hồ Thành Việt sáng tạo vào năm 1987. Ông là người đầu tiên sáng tạo ra các font chữ quốc ngữ có dấu để dùng trên computer. Khi tôi bắt đầu đánh chữ Việt trên computer, giá của bộ VNI khá đắt. Tôi không nhớ rõ bao nhiêu nhưng tôi phải xin một anh bạn bên Mỹ về download xuống. Mỗi bộ VNI bán trên thị trường có thể download xuống dược một số lần nhất định. Anh bạn mới download một lần để dùng nên bằng lòng cho tôi download tiếp không tốn xu nào. Ngặt cái anh ở bên Mỹ, tôi ở Canada, anh phải gửi qua bưu điện cho tôi download xong phải gửi bưu diện trả lại anh. Lích kích nhưng không có cách nào khác. Có một chuyện vui vui khi gửi qua gửi lại như vậy. Gói hộp VNI anh bạn gửi qua phải khai nội dung có gì, giá bao nhiêu. Anh bạn tôi khai “VNI font”, ông quan thuế Canada không biết bữa đó có bị vợ la rầy hay không mà chữ tác nhìn ra chữ tộ, đọc ra là “vitamine”, thuốc bổ. Ông nã thuế mấy chục đồng tôi không nhớ rõ. Tôi phải nộp tiền khi nhận. Nhưng tôi khiếu nại đòi lại. Thư đi thư lại không biết bao nhiêu lần, quan thuế Canada đành trả lại tiền cho tôi.

Ông Hồ Thành Việt, một cựu sĩ quan của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, đã mất sớm. Ông qua đời vào năm 2003 vì ung thư phổi khi chỉ mới 49 tuổi.
Tới chừ tôi không dùng VNI nữa. Chắc nhiều người khác cũng vậy. Bởi vì Unikey ra đời, tiện lợi hơn, dễ dùng hơn. Hầu như bây giờ Unikey ăn trùm. Tác giả bộ gõ này là Phạm Kim Long, theo học trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội niên khóa 1991-1996, tốt nghiệp loại giỏi. Từ năm 1997 làm nghiên cứu sinh tại  Đại học Kỹ Thuật Praha, Cộng hòa Séc. Bộ gõ tiếng Việt Unikey được anh Long bắt đầu thực hiện từ khi còn ngồi ở ghế nhà trường vào năm 1994 dành cho hệ điều hành MS-DOS. Chuyện thực hiện Unikey có một chút vui vui. Khi đó đang học năm cuối trường Bách Khoa, anh Long cùng ba người bạn cùng lớp thách dố nhau xem ai tạo ra bộ gõ tiếng Việt nhỏ gọn nhất dành cho hệ điều hành DOS. Kết quả anh Long dành chiến thắng với bộ gõ chỉ 2Kb siêu nhỏ gọn, một sản phẩm có thể coi là phiên bản đầu tiên của Unikey sau này. Tới năm 1988, anh mới thực hiện phiên bản dành cho Windows với tên gọi LittleVnKey để dùng và tặng cho bạn bè. Mãi tới năm 2000, anh đang bí đề tài làm luận án tốt nghiệp, anh lân la trên một diễn đàn tin học nổi tiếng thì thấy nhiều người bàn luận chuyện gõ tiếng Việt trên máy tính Windows với tiêu chuẩn Unicode, anh mới hoàn thiện Unikey.

pham kim long

Cha đẻ bộ gõ Unikey Phạm Kim Long.


Máu sáng tạo nổi lên, anh quyết định tạo một bộ gõ miễn phí để giúp mọi người dùng computer đánh tiếng Việt. Anh bỏ ra một đêm để thiết kế, hai đêm mã hóa mới cho ra phiên bản hoàn chỉnh mang tên Unikey. Năm 2001, anh quyết định công bố mã nguồn mở Unikey để mọi người download thoải mái không mất xu teng nào. Hành động đáng quý của anh bị các người làm thương mại với các bộ gõ họ đang bán chỉ trích. Họ tung tin đồn Unikey của anh có virus kèm bên trong. Dân dùng computer để viết tiếng Việt không care. Sự đơn giản, tính tiện lợi và nhất là chuyện không phải móc tiền ra để có được Unikey khiến cho bộ gõ của anh Long phổ biến nhanh chóng. Năm 2006, Apple đã liên lạc với anh Phạm Kim Long để dùng Unikey trên các phôn, máy tính bảng hệ điều hành macOS và iOS của họ. Nếu muốn thu lợi, đây là cơ hội bằng vàng cho anh bỏ túi một núi tiền nhưng anh đã bất ngờ tặng luôn Unikey cho Apple hoàn toàn miễn phí. Anh giải tích hành động…quân tử Tầu của anh : "Việc Unikey trở thành phần mềm miễn phí là rất tự nhiên, vì nó ra đời từ chính nhu cầu của người dùng cần một chương trình bàn phím miễn phí. Hơn nữa, khi làm được gì hay thì lẽ rất tự nhiên là muốn chia sẻ với người khác. Mình không có ý đối lập với những người viết chương trình thương mại, họ làm ra chương trình để kiếm sống bằng lao động của họ là điều hoàn toàn chính đáng. Mình cũng sống bằng viết phần mềm nhưng Unikey thì không phải phần mềm kiếm sống. Unikey là một thú giải trí của mình, như vậy viết Unikey cũng chính là phục vụ cho mình vậy. Mình sẽ luôn duy trì Unikey là phần mềm miễn phí. Mà hơn nữa Unikey là open source (mã nguồn mở), ai cũng có thể lấy nó về phát triển thêm".

Năm 2025 này, Unikey tròn 31 tuổi, tuy già nhưng vẫn ăn trùm, được mọi người đánh tiếng Việt trên computer ưa dùng. Họ không trực tiếp được gặp con người có lòng này nhưng trong thâm tâm, mỗi khi ngồi vào bàn làm việc, họ vẫn thầm cám ơn người đã sáng tạo ra Unikey. Trong số đó, có tôi!
 
                                                                                            05/2025
                                                                          Website : www.songthao.com
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.