Hôm nay,  

Viết Báo

18/07/202500:00:00(Xem: 2071)
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.

in typo
Máy in typo

Đầu tiên bài báo được thảy cho thợ xếp chữ. Ngày tôi bắt đầu viết báo ở Sài Gòn tất cả các báo vẫn còn in theo  lối typo. Thợ sắp chữ lựa từng con chữ bằng hợp kim, dùng một chiếc kẹp xếp vào một cái khuôn đúng kích thước một cột báo. Cái khó là họ phải sắp ngược chữ. Muốn biết ngược ra sao, chúng ta có thể để một trang báo trước gương rồi nhìn vào gương. Không quen không đọc được. Có đọc được thì cái đầu sẽ nhức như búa bổ. Thợ sắp chữ phải học để có thể đọc ngược một cách thành thạo. Xếp xong phần bài báo được giao phó, giao cho ông sếp thợ chữ, gọi là sếp typo. Ông này dùng mực quét lên bề mặt và ịn vào một tờ giấy thấm mực. Bài báo trở lại chữ xuôi như thường. Bản in này được đưa lên ông thầy cò để sửa. Ông thầy cò nhìn vào bản viết tay của bài báo so với bản vỗ để sửa từng chữ từng câu, từng cái dấu chấm dấu phẩy. Cái khó của ông thầy cò là đọc cho ra bản viết của tác giả. Ngày đó người viết đa số viết bằng tay. Mỗi người một kiểu chữ, rồng bay phượng múa hay chân chỉ hạt bột, mỗi ông một trường phái, điểm chung là chữ viết thường rất khó đọc. Gặp bài của mấy ông bác sĩ chỉ có nước khóc ròng. Chẳng lẽ mang ra tiệm thuốc tây nhờ các ông dược sĩ đọc giùm! Đọc không thông thì đoán, may ra thì trúng, không may thì trật, trúng là hồng phúc, trật thì bị nghe cằn nhằn khi báo phát hành. Tôi khởi viết trên bán nguyệt san Thời Nay từ thời còn là sinh viên. Cuối tuần tôi hay la cà tới tòa báo để nhậu nhẹt. Chẳng có chầu nhậu nào mà không bị ông Hoài Thương, thầy cò ngày đó, nắm áo hỏi chữ này chữ kia. Lúc đó tôi cun cút đọc lại bản thảo của mình, chỉ chữ sửa đúng mà không dám cằn nhằn vì bị phá quấy trong lúc nhậu. Bởi vì ông Hoài Thương còn ấm ức hơn, chưa rảnh để cụng ly với anh em. Đụng vào ông ấy không đúng thời điểm dễ bị xỉ vả lắm.

bang chu cai

Bảng sắp chữ ngược.


Bản sửa của ông thầy cò được ông sếp typo mang xuống nhà chữ, giao cho thợ sửa lại. Xong ông sếp typo dùng máy ép, ép bát chữ vào một khuôn bằng giấy bồi, nổi lửa nấu chì thành chất lỏng, đổ vào khuôn để tạo ra một khuôn in bằng chì. Thợ in sẽ dùng đinh đóng bản chì này vào tấm gỗ của máy in. Thường thì tại bốn góc bản chì có bốn cái lỗ để khi đóng đinh, đầu đinh không bị lồi lên. Nhưng có nhiều ông thợ in làm ẩu, để đầu đinh thòi lên, khi báo in ra có bonus hình mấy cái đầu đinh lạc lõng này. Tùy theo loại máy lớn nhỏ, mỗi bản in sẽ có kích thước khác nhau. Máy in báo Thời Nay ngày đó thuộc loại in ra được 16 trang báo khổ Thời Nay. In một mặt, lật lại in mặt thứ hai. In xong, thợ gấp báo sẽ ngồi gấp lại theo thứ tự nhất định để khi in ra trang trước tiếp nối trang sau đúng số trang. Bản gấp sẽ được đưa vào máy đóng và cắt báo, vô bìa thành tờ báo tới tay độc giả. Sau này báo chí Sài Gòn có cải tiến bằng lối in offset.

in offset

Máy in offset.


Báo Thời Nay hồi đó không có máy in offset nên tôi không rành lối in này. Đại khái đây là một kỹ thuật in trong đó hình ảnh dính mực in được ép lên các tấm cao su (còn gọi là các tấm offset) trước đó rồi mới ép từ miếng cao su này  lên giấy. Lối in này cho ra chất lượng hình ảnh rõ ràng hơn lối in typo. Mực in không dính đen tay khi đọc báo. Cách in offset không mới mẻ chi. Từ năm 1875 lối in này đã ra đời tại Anh nhưng kỹ thuật còn thô sơ nên không thực tế. Sau nhiều cải tiến, tới thập niên 1950, kỹ thuật in offset mới thông dụng. Ký giả Nguyễn Việt trong bài hồi ký “Nghề Làm Báo Trước Năm 1975”, cho biết chi tiết về việc báo chí Sài Gòn in offset: “Phải nói tờ Trắng Đen  trước 1975, là tờ báo được in offset đầu tiên tại miền Nam bấy giờ, vào năm 1971 (kể cả tuần báo, tuần san và tạp chí đang phải in typo với bản chì – mỗi bản chì nếu có nhiều antimoine cũng chỉ in khoảng 5.000 bản, là chữ đã mòn nhoè không đọc được nữa, còn mỗi bản kẽm in trên máy offset có số lượng không dưới 20.000 bản, hình ảnh chữ nghĩa rất rõ ràng dễ đọc…Thời gian này chưa ai nhập máy in offset rotative (máy in offset tự động), nên in một tờ báo có số lượng ấn hành hàng ngày trên 100.000 bản, phải sử dụng ít nhất là 10 máy in Offset bán tự động (bình quân mỗi giờ chỉ in được từ 4.000 đến 6.000 bản/mặt)…Khu nhà in ngày trước thường tập trung tại đường Phạm Ngũ Lão, Lê Lai và Võ Tánh, đa số là máy in typo hoặc được trang bị thêm máy offset đặt tay in bìa tập san, tuần san, (sau này ngành in offset chiếm hẳn thị phần, nên các khu vực trên chỉ cho thuê làm tòa soạn báo). Nhà in lớn và hiện đại lúc đó chỉ có Indeo và Nguyễn Bá Tòng còn lại chỉ thuộc loại vừa và nhỏ đều do tư nhân kinh doanh, còn khu vực in nhà nước không nhận in gia công cho tư nhân. Khi ngành in offset được tuyệt đại đa số báo chí ra ngày, tuần hay tháng đặt in, bấy giờ các chủ nhà in lại thi nhau nhập máy, như nhà in Nguyễn Tấn Đời (một nghiệp chủ ngân hàng trước khi ngồi tù vì vỡ nợ, cũng ra làm báo – tờ Việt Nam – và lập nhà in), mua về máy in offset rotative in 4 màu 8 trang đặt tại cao ốc Trần Hưng Đạo (gần khu Chợ Quán, Trần Bình Trọng), nhưng máy khai thác không hết công suất, vì tờ Việt Nam in ra không bán được. Đến một nghiệp chủ ngân hàng khác – ông Phạm Sanh – mua máy rotative về in báo mướn, đặt tại đường Hồng Thập Tự (nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai, sau này Phạm Sanh cũng đỗ nợ, vì buôn gạo cho Tổng Cục Tiếp Tế, nhà in bị trưng thu), nên khi nói về ngành in, thì từ năm 1972 trở đi miền Nam mới có những thiết bị tiên tiến hiện đại”.

Ngày đó tôi dùng bút bi viết trên giấy in báo. Mỗi khi tới tòa soạn, tôi thường lượm những giấy in lỗi, một mặt còn trắng, để viết. Không phải vì tiện tặn nhưng viết bằng bút “nguyên tử” trên giấy báo rất ăn mực. Ông Khánh Giang khi đó là Thư Ký Tòa Soạn, ngồi làm việc tại tòa báo, có sẵn chiếc máy chữ loại xách tay Olympia nên viết bằng máy chữ oai hơn. Chữ đánh máy rõ ràng hơn, rất vừa ý ông Hoài Thương, miễn là ông Khánh Giang không lười biếng thay băng mực. Có những khi băng mực gần cạn, chữ hiện lên khi trồi khi sụt, hai ông lại có dịp vặc nhau cho vui cửa vui nhà. Máy chữ hồi đó là máy chữ tây nên không thèm có dấu chữ Việt. Đánh máy xong phải ngồi dùng bút vẽ thêm dấu vào rất mất thời giờ. Thời giờ của ông Khánh Giang là…rượu nên nhiều khi, sẵn có tôi ngồi chờ nhậu, ông thảy cho tôi bỏ dấu. Một thằng viết, một thằng bỏ dấu, có khi bỏ dấu sai. Báo in ra hai ông cãi cọ, khi đó tôi không có mặt tại tòa soạn nên vô tội vì thủ phạm đang tại đào. Sau này tôi nghe nói có loại máy chữ có thể đánh dấu tiếng Việt được nhưng tôi chưa bao giờ có dịp sử dụng.

Ba thập niên sau, khi tôi viết trên đất người, có computer nên máy đánh chữ dù có thể đánh dấu hay không đều đi vào dĩ vãng. Tôi lên đời từ viết bằng bút “nguyên tử” (nghe hiện đại phát ớn!) qua thẳng computer, không thèm biết tới máy đánh chữ. Chuyện này khiến tôi loạng quạng. Năm 1990, sau thời gian 5 năm ổn định cuộc sống nơi đất mới, tôi cầm bút trở lại. Thoạt đầu, tôi viết truyện ngắn cho các báo Văn Học, Văn, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21 ở Califronia và tờ Làng Văn ở Toronto, Canada. Có computer nhưng sau bao nhiêu năm cầm bút đúng nghĩa, chỉ viết bằng bút, tôi không quen viết trên máy. Tôi gọi cái màn hình computer là “anh mặt vuông”. Nhìn cái mặt không giống ai này không ra chữ. Đành lại viết tay rồi đánh computer lại. Nhờ thế mà tới giờ tôi vẫn còn thủ bút các truyện ngắn của tôi. Nhưng từ năm 2004, khi bắt đầu viết phiếm, tôi viết thẳng vào cái anh mặt vuông. Chữ vẫn ra ào ào. Hóa ra chỉ là thói quen. Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi. Cứ bén hơi là mọi chuyện suông sẻ.

computer có nhiều cái tiện lợi so với máy đánh chữ. Thứ nhất là gõ thiếu, gõ sai, có thể xóa đi gõ lại một cách dễ dàng. Dùng máy đánh chữ, khi sai phải dùng dung dịch xóa đi vừa mất mỹ thuật vừa lích kích. Sai nhiều hoặc muốn bỏ một đoạn dài phải bỏ đi đánh lại vào một tờ giấy khác. Máy đánh chữ chỉ đánh được một bản, muốn có nhiều bản phải dùng giấy carbon và đánh mạnh tay. Cũng chỉ thêm được tối đa 5 hoặc 6 bản. Những bản sau mờ tịt không thấy rõ. Bản đánh bằng computer muốn in ra bao nhiêu bản cũng đặng. Tôi ở Montreal viết cho nhiều báo ở bên Cali. Đánh bài bằng computer, lưu lại, gửi e-mail bài đi. Báo bên Mỹ chỉ việc dàn trang in, không phải đánh máy lại lôi thôi chi.

Dùng computer có bộ gõ đánh tiếng Việt rất tiện lợi, dấu chi cũng đánh được. Các kỹ sư điện toán Việt Nam đã bỏ nhiều công sức sáng chế ra nhiều bộ gõ tiếng Việt. Bộ gõ WinVNKey, OpenKey, TocKyVNKey, GoTiengViet, VietKey, EVKey. Tôi chỉ dùng VNI trước đây và Unikey bây giờ nên chỉ biết hai bộ gõ này.

ho thanh viet
Ông Hồ Thanh Việt - cha đẻ của font chữ VNI

Kiểu gõ và bộ chữ VNI do kỹ sư Hồ Thành Việt sáng tạo vào năm 1987. Ông là người đầu tiên sáng tạo ra các font chữ quốc ngữ có dấu để dùng trên computer. Khi tôi bắt đầu đánh chữ Việt trên computer, giá của bộ VNI khá đắt. Tôi không nhớ rõ bao nhiêu nhưng tôi phải xin một anh bạn bên Mỹ về download xuống. Mỗi bộ VNI bán trên thị trường có thể download xuống dược một số lần nhất định. Anh bạn mới download một lần để dùng nên bằng lòng cho tôi download tiếp không tốn xu nào. Ngặt cái anh ở bên Mỹ, tôi ở Canada, anh phải gửi qua bưu điện cho tôi download xong phải gửi bưu diện trả lại anh. Lích kích nhưng không có cách nào khác. Có một chuyện vui vui khi gửi qua gửi lại như vậy. Gói hộp VNI anh bạn gửi qua phải khai nội dung có gì, giá bao nhiêu. Anh bạn tôi khai “VNI font”, ông quan thuế Canada không biết bữa đó có bị vợ la rầy hay không mà chữ tác nhìn ra chữ tộ, đọc ra là “vitamine”, thuốc bổ. Ông nã thuế mấy chục đồng tôi không nhớ rõ. Tôi phải nộp tiền khi nhận. Nhưng tôi khiếu nại đòi lại. Thư đi thư lại không biết bao nhiêu lần, quan thuế Canada đành trả lại tiền cho tôi.

Ông Hồ Thành Việt, một cựu sĩ quan của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, đã mất sớm. Ông qua đời vào năm 2003 vì ung thư phổi khi chỉ mới 49 tuổi.
Tới chừ tôi không dùng VNI nữa. Chắc nhiều người khác cũng vậy. Bởi vì Unikey ra đời, tiện lợi hơn, dễ dùng hơn. Hầu như bây giờ Unikey ăn trùm. Tác giả bộ gõ này là Phạm Kim Long, theo học trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội niên khóa 1991-1996, tốt nghiệp loại giỏi. Từ năm 1997 làm nghiên cứu sinh tại  Đại học Kỹ Thuật Praha, Cộng hòa Séc. Bộ gõ tiếng Việt Unikey được anh Long bắt đầu thực hiện từ khi còn ngồi ở ghế nhà trường vào năm 1994 dành cho hệ điều hành MS-DOS. Chuyện thực hiện Unikey có một chút vui vui. Khi đó đang học năm cuối trường Bách Khoa, anh Long cùng ba người bạn cùng lớp thách dố nhau xem ai tạo ra bộ gõ tiếng Việt nhỏ gọn nhất dành cho hệ điều hành DOS. Kết quả anh Long dành chiến thắng với bộ gõ chỉ 2Kb siêu nhỏ gọn, một sản phẩm có thể coi là phiên bản đầu tiên của Unikey sau này. Tới năm 1988, anh mới thực hiện phiên bản dành cho Windows với tên gọi LittleVnKey để dùng và tặng cho bạn bè. Mãi tới năm 2000, anh đang bí đề tài làm luận án tốt nghiệp, anh lân la trên một diễn đàn tin học nổi tiếng thì thấy nhiều người bàn luận chuyện gõ tiếng Việt trên máy tính Windows với tiêu chuẩn Unicode, anh mới hoàn thiện Unikey.

pham kim long

Cha đẻ bộ gõ Unikey Phạm Kim Long.


Máu sáng tạo nổi lên, anh quyết định tạo một bộ gõ miễn phí để giúp mọi người dùng computer đánh tiếng Việt. Anh bỏ ra một đêm để thiết kế, hai đêm mã hóa mới cho ra phiên bản hoàn chỉnh mang tên Unikey. Năm 2001, anh quyết định công bố mã nguồn mở Unikey để mọi người download thoải mái không mất xu teng nào. Hành động đáng quý của anh bị các người làm thương mại với các bộ gõ họ đang bán chỉ trích. Họ tung tin đồn Unikey của anh có virus kèm bên trong. Dân dùng computer để viết tiếng Việt không care. Sự đơn giản, tính tiện lợi và nhất là chuyện không phải móc tiền ra để có được Unikey khiến cho bộ gõ của anh Long phổ biến nhanh chóng. Năm 2006, Apple đã liên lạc với anh Phạm Kim Long để dùng Unikey trên các phôn, máy tính bảng hệ điều hành macOS và iOS của họ. Nếu muốn thu lợi, đây là cơ hội bằng vàng cho anh bỏ túi một núi tiền nhưng anh đã bất ngờ tặng luôn Unikey cho Apple hoàn toàn miễn phí. Anh giải tích hành động…quân tử Tầu của anh : "Việc Unikey trở thành phần mềm miễn phí là rất tự nhiên, vì nó ra đời từ chính nhu cầu của người dùng cần một chương trình bàn phím miễn phí. Hơn nữa, khi làm được gì hay thì lẽ rất tự nhiên là muốn chia sẻ với người khác. Mình không có ý đối lập với những người viết chương trình thương mại, họ làm ra chương trình để kiếm sống bằng lao động của họ là điều hoàn toàn chính đáng. Mình cũng sống bằng viết phần mềm nhưng Unikey thì không phải phần mềm kiếm sống. Unikey là một thú giải trí của mình, như vậy viết Unikey cũng chính là phục vụ cho mình vậy. Mình sẽ luôn duy trì Unikey là phần mềm miễn phí. Mà hơn nữa Unikey là open source (mã nguồn mở), ai cũng có thể lấy nó về phát triển thêm".

Năm 2025 này, Unikey tròn 31 tuổi, tuy già nhưng vẫn ăn trùm, được mọi người đánh tiếng Việt trên computer ưa dùng. Họ không trực tiếp được gặp con người có lòng này nhưng trong thâm tâm, mỗi khi ngồi vào bàn làm việc, họ vẫn thầm cám ơn người đã sáng tạo ra Unikey. Trong số đó, có tôi!
 
                                                                                            05/2025
                                                                          Website : www.songthao.com
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.