Hôm nay,  

Onusa

21/03/202110:06:00(Xem: 3585)

 


Nó lử lử lừ đừ quạt nhẹ cái vây, sức yếu quá không còn đủ mạnh để bơi ngược dòng hải lưu, có lúc nó nổi phập phều mặc cho con nước đưa đẩy, cái tấm lưng của nó dập dềnh trên mặt nước, bụng quặn đau kinh khủng, cơn đau triền miên kéo dài hai tháng nay. Nó không thiết gì ăn nữa, xung quanh nó những đàn cá hồi, cá he, tôm krill đông đặc như đám mây đen vần vũ. Bình thường thì nó đã há cái mồn to tướng ra cho nước ào ào chảy vào, mang theo bao nhiêu tôm cá, sau đó nó ngậm mồn lại, nước được phun ra qua kẽ răng, còn lũ tôm cá thì lọt xuống bao tử. Giờ thì nó mặc kệ, nó không còn sức để  ăn và linh cảm sắp rời bỏ đại dương rồi. Nó sinh ra và lớn lên ở đây, nó đã làm bá chủ đại dương mười lăm năm nay. Cư dân biển cả lẫn bọn ngư phủ đều kêu nó là nữ hoàng của đại dương. Nhiều kẻ quên cả tên của nó là Mauora, họ chỉ quen gọi nó là “ The queen of the ocean”. Quả thât nó là nữ hoàng của biển cả này, chỉ một cú quạt đuôi hay quăng mình của nó đủ làm kinh động ầm ầm một vùng biển cả. Nước mắt nó chảy ra hòa lẫn nước đại dương. Nó biết nó đang từ giã cõi đời vào cái thời kỳ sung mãn của vòng đời. Những cơn đau của cái bụng đã hành hạ lâu nay làm cho nó kiêt sức. Nó tiếc nuối và lo lắng cho hai đứa con còn nhỏ. Thằng Onusa và con Ohara vẫn bơi kè kè bên hông, hai đứa còn non nớt, vẫn còn uống những giòng sữa cuối cùng mà nó tiết ra. Mauora thều thào

- Mẹ yêu hai con nhưng mẹ không còn ở bên hai con bao lâu nữa đâu. Mẹ đi rồi, hai con hãy nhớ lời này: Đừng bao giờ rời xa vùng nước lạnh và hãy tránh xa những con tàu, những con tàu to lớn hơn cả mẹ nhưng rất nguy hiểm.

Onusa và Ohara thút thít

- Con yêu mẹ, mẹ đừng bỏ con đi!

Nước mắt Mauora chảy những giọt cuối cùng, mắt nó mờ dần, nó cố gắng lần cuối phọt những giòng sữa cạn kiệt vào miệng của Onusa và Ohara. Giọng nó ngút ngút ngắt quãng

- Mẹ yêu hai con...con…

Lời chưa dứt thì hơi thở cuối cùng đã tắt, lỗ thở trên đỉnh đầu phụt lên một làn hơi yếu ớt tạo ra một tí hơi nước rồi tắt lịm. Onusa và Ohara bơi vòng quanh xác mẹ nó mấy ngày liền, sau khi hai đứa biết chắc rằng mẹ chúng nó đã chết, từ đó chúng mới chịu bơi đi. Hai đứa bơi lòng vòng những ngày sau đó với cái bụng trống rỗng, không còn giọt sữa nào. Chúng nó đói, bản năng sinh tồn khiến nó biết cách đi tìm những đàn tôm krill, đấy là món khoái khẩu của dòng tộc nhà chúng. Khi thấy đàn tôm, hai đứa bắt chước mẹ nó, hả cái mồn thật to để cho nướcc biển lẫn tôm krill chảy ào ào vào họng. Bữa săn đầu đời không tệ chút nào, cái bụng của chúng tạm no, chẳng mấy chốc chúng biết cách sinh tồn giữa đại dương mênh mông này. Những ngày sau nữa chúng bơi dần xa hơn chốn cũ để tìm những đàn tôm kirll khác, gặp những con sứa biển đẹp tha thướt chúng cũng nuốt ngon lành.

Một ngày kia hai đứa quá say sưa nên lạc đến một vùng biển lạ, lập tức những con cá khổng lồ như mẹ nó bơi đến ngăn chặn và xua đuổi. Hai đứa đã xâm phạm lãnh hải của những con cá voi khác. Lúc ấy hai đứa thấy một con cá voi con, có lẽ cũng trạc tuổi chúng, con cá voi con ấy bơi đến khoảng giữa mẹ nó và hai đứa

- Mẹ ơi, hai đứa kia dễ thương mà mẹ, để tụi nó chơi với con!

Con cá voi mẹ lắc đầu quầy quậy

- Không được! Chúng ở lại đây thì chúng ta không đủ thức ăn!

Con cá voi con không cần mẹ nó đồng ý, nó bơi sáp lại Onusa và Ohara. Nó quạt đuôi quẫy nước vào hai đứa tỏ vẻ thân thiện

- Các cậu tên gì? Tớ là Muosa, mẹ tớ tên Rouda và ba tớ là Tuoga

Onusa trả lời

- Tớ là Onusa và em gái tớ là Ohara. Mẹ tớ bị đau bụng mới chết tuần rồi, giờ bọn tớ không có mẹ

Muosa mủi lòng

- Thật buồn cho các cậu, hay là các cậu ở lại đây với gia đình tớ?

Không đợi hai đứa trả lời, Muosa bơi lại bên mẹ nó thủ thỉ

- Mẹ ơi, hai đứa nó mới mất mẹ, hãy để hai đứa nó ở lại làm bạn với con!

Rouda và  Tuoga ngần ngừ, thân mình lắc lư trong làn nước mà không nói gì. Muosa reo lên

- Vậy là ba mẹ đồng ý hén!

Muosa lập tức quay lại với Onusa và Ohara, bọn chúng vui đùa ầm ào, tung mình lên hư không và rơi đùng đùng xuống nước. Chúng quẫy đuôi, đập nước ầm ầm, những cơn sóng do chúng tạo nên phá vỡ sự yên lặng của đại dương. Chúng tíu tít như đã quen tự thuở nào. Rouda và Tuoga nhìn chúng trìu mến, không còn ý nghĩ xua đuổi hai đứa nữa. Rouda bảo Tuoga

- Con nít quả thật ngây thơ và trong trắng, chúng đến với nhau tự nhiên, chẳng có khúc mắc và mưu tính như bọn chúng ta.

Rouda và Tuoga bơi rộng vòng ngoài, dường như có ý bảo vệ và cũng tạo khoảng cách thoải mái cho bọn trẻ vui đùa.

Sau mấy mùa băng tan trên biển, cả ba chúng nó phổng phao ra, chúng lớn nhanh như thổi. Onusa giờ tuấn tú dõng mãnh như ba của nó ngày xưa. Mẹ nó từng kể ba nó là một chiến binh vĩ đại của đại dương, là niềm kiêu hãnh của họ nhà cá voi. Một lần kia, khi ba nó phát hiện con tàu khổng lồ có treo mảnh vải trắng với hình tròn đỏ ở giữa. Ba nó rít lên báo động cho mẹ nó và những con cá voi khác hãy lặn thật sâu. Lúc đó nó vừa tượng hình trong bụng mẹ. Ba nó bơi nghễu nghện trước con tàu đó, phụt những vòi nước thật cao để dụ con tàu đi xa khỏi bầy cá voi. Ba nó đã trả giá bằng mạng sống để cứu mẹ con nó và những con cá voi khác. Con tàu có mảnh vải trắng với vòng tròn đỏ đã kéo ba nó lên boong tàu để xẻ thịt. Ohara và Muosa thì ra dáng xuân thì như mẹ của chúng. Dường như Onusa đã đem lòng yêu Muosa, tuy nó chưa đủ trưởng thành nhưng đã tỏ ra dáng vẻ của một chiến binh biển cả và khí độ của một chúa tể đại dương. Muosa thưa với Rouda

- Chúng con đã lớn, mẹ cho phép chúng con chu du một chuyến nhé? Chúng con muốn khám phá những vùng biển mới!

Cả Rouda và Tuoga trìu mến nhìn ba đứa gật đầu. Rouda căn vặn

- Các con hãy lên đường học hỏi để mở rộng tầm nhìn. Các con không thể ở mãi nơi này, nhưng các con cần nhớ rằng: Đừng bao giờ rời xa những vùng nước lạnh, tránh thật xa những con tàu đồ sộ trên mặt biển. Những con tàu ấy có cái lưỡi dài và rộng kinh khủng, chúng sẽ kéo các con lên trên ấy để sát hại. Chúng có những mũi lao to lớn phóng ra cắm ngập vào thân chúng ta, hễ thấy bóng dáng chúng là lập tức bơi thật xa, lặn thật sâu!

Onusa giật mình, những lời này sao giống hệt những gì mẹ nó trăn trối trước lúc chết. Onusa và Muosa lập tức vẫy đuôi bơi đi. Riêng Ohara thì ở lại, nó giờ đã thành mẹ kế của Muosa rồi. Onusa và Muosa bơi từ bình minh cho đến hoàng hôn, rồi hoàng hôn lại đến bình minh, ngày nối tiếp ngày, dặm dài đại dương bao la mở ra những khung cảnh mới lạ. Hai đứa gặp những cư dân biển cả xa lạ mà trước giờ ở vùng biển lạnh chưa hề thấy, thỉnh thoảng hai đứa ngoi lên thấy núi thẳm rừng xanh khác xa với những tuyết sơn băng đảo của quê hương chúng. Hai đứa thấy đói nhưng ở đây tuyệt nhiên không thấy một con tôm krill hay con cá hồi nào cả, bù lại cơ man nào là cá mòi, cá trích, cá đối… và vô số các loại khác nữa. Những đàn cá đông đặc lên đến cả vạn con, những loại cá này quây quần như những cụm mây rồi tản ra như làn khói. Onusa và Muosa không cần tốn sức, chúng chỉ cần hả miệng ra thì bao nhiêu là thức ăn theo dòng nước chảy vào . Hai đứa mải mê với cảnh vật mới lạ mà quên mất lời dặn dò của các bà mẹ. Chúng đã đi quá xa, đã đến vùng biển ấm. Ban đầu chúng thoảng chút lo lắng, nhưng cảnh vật đẹp đẽ làm cho chúng quên mau chóng. Cả hai sung sướng với vùng đại dương nước ấm này. Dáng vóc của Onusa và Muosa kỳ vĩ to lớn, đủ để lũ cá mập vốn hung hăn dữ tợn và phàm ăn cũng phải sợ  mà lảng ra xa.



Một con rùa già dường như đuối sức, mặc cho thân hình dập dềnh bên chúng. Onusa thấy hành vi của con rùa già sao giống mẹ nó những ngày bị đau bụng sắp chết. Rùa già thấy con cá voi quan sát mình nên cất giọng thều thào

- Tôi là Lohuka, tôi đã bảy mươi lăm tuổi rồi. Họ nhà tôi sống ở vùng biển này đã bao đời, chúng tôi thích ăn những con cá mại , rong biển và lũ sứa biển. Ấy thế mà gần đây họ  hàng nhà tôi nhiều người bị đau bụng đến chết vì nuốt sứa biển, đã có rất nhiều kẻ chết, thật không hiểu tại sao! Tôi cũng vậy, bụng tôi đau kinh khủng sau khi nuốt sứa biển. Tôi không còn cảm giác đói, không thể ăn nuốt gì nữa, sức kiệt dần, có lẽ tôi sẽ chết nay mai thôi! Các bạn đừng nuốt lũ sứa biển ấy nữa, kẻo không lại đau bụng đến chết đấy!

Onusa chột dạ, ông ấy sao giống hệt mẹ mình, nuốt những con sứa biển và đau bụng đến chết, những con sứa biển giờ sao mà đầy đặc ở đại dương. Onusa còn nghĩ ngợi thì rùa Lohuka tiếp tục thều thào

- Bọn người trên bờ bỏ vào đại dương vô số rác và những tấm lưới giống như rong biển. Họ hàng tôi và những cư dân biển cả bị vướng vào cổ mà chết ngạt

Rùa già Lohuka chưa dứt lời thì bỗng nhiên xuất hiện một bầy cá heo, chúng nó nô đùa ầm ĩ, thi nhau tung mình nhào lộn trong không trung. Một con cá heo lân la lại gần Onusa, nó nghe rùa Lohuka nói thế bèn góp lời

- Tôi là Potunga, bọn tôi sống ở vùng biển ấm, bọn tôi cũng thích bơi vào gần bờ. Ngày trước gần bờ thức ăn nhiều lắm, nhưng giờ cũng cạn kiệt rồi, vả lại biển gần bờ rất nguy hiểm, nhiều cạm bẫy nào là lưới, cần câu, đăng, đó… Có những vùng biển gần bờ giờ bị bọn người trên bờ xả những thứ nước độc hại, có loại đen ngòm, có loại vàng nhờ nhợ, có loại đỏ lòm...mùi những thứ nước ấy rất kinh khủng. Cư dân biển gần bờ tiếp xúc các loai nước ấy chết sạch ráo. Họ hàng và bạn bè tôi cũng chết khá nhiều vì thứ nước ấy. Nếu chúng ta uống hay bơi trong nước ấy thì sẽ bị lở loét, có kẻ thì chết ngay lập tức nhưng cũng có kẻ lây lất sống dở chết dở.

Onusa và Muosa rùng mình kinh sợ, chúng không ngờ loài người trên bờ độc ác như thế, những thứ nước và rác độc dễ sợ thật. Thân thể chúng chỉ có những mảng hàu và hà bám đủ khó chịu huống chi là chẳng may bị lở loét vì những thứ nước ấy. Con rùa già một lần nữa lấy hết sức tàn lực kiệt để cảnh báo 

- Các bạn cá heo, cá voi và các loài khác hãy cẩn thận! Đừng nuốt những con sứa, tránh mấy tấm rong biển và những vùng nước đổi màu ấy, kẻo không thì chết cả đám!

Nói xong lời này. Rùa già Lohuka tắt thở, xác nó nửa chìm nửa nổi trong làn nước biển, sóng gió đẩy đưa cho đến khi tấp vào bờ. 

Năm ấy, sau khi  the Queen of the ocean chết, xác nó trương phình cứ như một hòn đảo nhỏ giữa biển khơi, sóng nước và gió đẩy đưa cho đến khi mắc cạn ở một vùng biển nhiệt đới. Ngư dân làng chài Nhơn Hải đang đánh cá ngoài khơi trông thấy, họ kêu gọi các tàu hiệp sức kéo xác Mauora vào bờ. Làng chài Nhơn Hải xôn xao hẳn lên, người người đổ ra xem ông lụy, tiếng ông lụy đồn nhanh như gió thổi. Dân chài các làng khác cũng đổ về. Anh Hai Hưng, một bạn đi biển tỏ vẻ ngạc nhiên, lớn tiếng nói to với mọi người đang bâu quanh

- Ông lụy, ông lụy! Tôi chưa từng thấy ông nào to như ông này!

Cụ Bảy Bình, một tay đi biển lão luyện có thâm niên gần cả đời người cũng không ngớt lời

- Tui đi biển từ khi mới mười lăm tuổi, giờ đã bảy mươi lăm rồi. Tui từng nhiều lần thấy ông lụy, nhưng chưa lần nào thấy ông to chà bá như thế!

Cả làng lập tức cúng tế ông, họ bàn bạc và quyết định sau khi ông rũ xương, đem cốt ông thờ tạm ở Hải lăng, sau sẽ xây một cái lăng mới to lớn cho tương xứng với bộ xương của ông này! 

Khi ông được kéo vào bờ, Người của chính quyền sở tại và viện hải dương cũng có mặt. Họ bảo phải để cho họ giảo nghiệm tìm xem lý do cá voi chết. Ban đầu dân làng chài phản đối, nhưng sau khi nghe lời thuyết phục của vị viện trưởng và sức ép của nhà cầm quyền họ mới chịu để cho các nhà khoa học thực hiện giảo nghiệm. Nhiều ngư dân phụ họ xẻ thịt cá voi, các nhà khoa học mổ bao tử cá voi và mọi người kinh ngạc khi thấy có cả trăm ký lô túi nylon, rác thải nhựa, lưới đánh cá… trong bao tử của nó. Các nhà khoa học của viện hải dương viết báo cáo khoa học:

“ Con cá voi Mauora chết vì đói, vì đau bụng. Nó đã nuốt cả trăm ký lô rác thải nhựa, rác thải sinh hoạt lẫn rác thải công nghiệp. Con cá voi này và cũng như những cư dân biển cả khác, chúng tưởng những cái túi nylon là sứa biển, những tấm lưới đánh cá là rong biển. Chúng nuốt vào và chúng bị đau bụng, khi nuốt quá nhiều rác nhựa chúng sẽ không còn ăn gì được nữa vì thế mà kiệt sức và chết đói. Đời sống tự nhiên của đại dương đang bị nguy hiểm, nhiều loài có khả năng tuyệt chủng, rác thải và hóa chất độc hại đang ngày đêm tuồn thẳng vào đại dương. Chúng ta phải hành động, cứu lấy đại dương!...” 

Onusa và Muosa tiếp tục cuộc hành trình của chúng, càng bơi xa hơn càng khám phá thêm những điều mới lạ, những vùng biển mà trước giờ chúng chưa từng nghe mẹ chúng nói đến. Cho đến một hôm cả hai gặp phải một con quái vật to thù lù ở giữa lòng đại dương, vùng nước tối lờ mờ. Con quái vật còn to hơn chúng rất nhiều, nó phát ra tiếng kêu rì rầm, có lúc thì lại rít lên xoen xoét như xoáy vào đầu, những âm thanh thay đổi liên tục. Onusa và Muosa mới đầu định bơi thât gần tính tiếp cận với con quái vật ấy, nhưng âm thanh của nó làm cho cả hai phải lảng ra. Con quái vật vẫn lù lù tiến tới, tiếng kêu con quái vậy làm cho Onusa và Muosa buốt cả óc, cả hai trở nên giận dữ cực độ. Chúng nó quay cuồng hoảng loạn, âm thanh con quái vật làm cho cả hai choáng váng, chúng nó nhắm mắt bơi loạn hướng, không còn khả nặng định hướng nữa, cái khả năng định hướng như cha mẹ và tổ tiên của chúng tự nhiên biến mất. Onusa và Muosa cứ thế bơi cho đến rã rời kiệt sức, chúng muốn quay trở về vùng biển lạnh nhưng giờ không còn biết hướng nào mà bơi, chúng cứ bơi cho đến khi không còn bơi được vì sa vào một vùng biển ấm và cạn cợt. Cả hai nằm thoi thóp, Onusa vỗ về Muosa nhưng lòng của nó cũng hoang mang tột độ. Nó không ngờ lại kết thúc cuộc đời ở vùng biển ấm này. Nó hối hận vì đã không nghe lời nó trăn trối của mẹ nó, không nhớ lời mẹ Ruoda căn vặn trước lúc viễn du. Nước mắt nó chảy ra và lịm đi.

Khi nó mở mắt tỉnh dậy thì có cảm giác cả thân mình nó bị lôi ngược. Nó cố vùng vẫy nhưng cái đuôi có sợi dây buộc. Nó nhướng mắt nhìn về sau thì thấy hai con tàu màu xanh với những sọc đỏ chạy dọc hai bên lườn đang kéo nó ra khơi. Muosa cũng được hai con tàu khác lôi ngược ra xa. Khi cả thân mình to lớn của nó vẫy vùng dễ dàng trong làn nước biển thì sợi dây buộc ở đuôi được tháo ra. Nó ngoái đầu lại kêu “hoop hoop hoop” liên hồi. Nó không biết nói tiếng của loài người, nó cảm ơn những con tàu đã kéo nó về biển sâu bằng âm thanh của nó. Cả hai sung sướng lấy đuôi quạt nước tung tóe như giã biệt những con tàu. Onusa và Muosa ra đến vùng nước sâu hụp xuống rồi cùng trồi lên, phụt hai cột nước thật cao sau đó mới bơi đi. 


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 02/2021 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Vừa ngồi được phút chốc thì thấy một thiếu phụ lên xe, nhìn cái bụng lum lum có bầu biết là chị ta khó nhọc lắm. Nó uể oải đứng dậy nhường chỗ cho chị ta, mặc dù nó đã đứng suốt ngày trong xưởng, hai chân mỏi muốn rũ ra. Xe buýt đầy nhóc, mọi người chen chân đứng như thế mà chị còn mang cái bầu nữa thì mệt phải biết. Nghĩ mình nhường ghế cho chị cũng là một hành vi đẹp nên dù có mệt nó vẫn thấy vui vui và thoải mái trong lòng.
Không ai (kể cả các nhà khoa học, các giáo sư Bác sĩ giỏi) có thể tiên đoán chính xác khi nào đại dịch chấm dứt? Bao giờ thì có thuốc chủng ngừa? Cũng chẳng dám kỳ vọng mọi thứ sẽ quay về như cũ, trước khi có đại dịch. Nhưng hy vọng những điều căn bản tồn tại nhiều trăm năm như bắt tay nhau, như vỗ vai nhau... sẽ trở lại sau đại dịch như "sau cơn mưa trời lại sáng". Hơn lúc nào hết, người ta cần có hy vọng để sống, để thêm nghị lực cùng nhau vượt qua đại dịch, và phân cách.
Rừng núi xanh mướt, không khí trong lành và hơi se se lạnh thấm vào từng chân lông kẽ tóc, len lỏi vào từng tế bào. Cái cảm giác khoan khoái thật dễ chịu, làm cho hai huynh đệ thọ nhận được sự bình an trong phút giây hiện tại. Cây cỏ xung quanh như tỏa ra một năng lượng tươi mát tràn đầy sức sống. Bất chợt sư huynh hỏi khẽ: - Dường như có đôi mắt nào đó đang theo dõi chúng ta? Cả hai dừng bước, nhìn quanh một tí thì phát hiện ra đằng sau bụi rậm có mẹ con nhà nai đang tròn xoe mắt nhìn, tai vểnh bắt sóng động của âm thanh, chúng có thể nghe được những âm thanh nhỏ nhất mà tai người không nghe được. Mẹ con nhà nai đang cảnh giác cao độ, toàn thân mượt mà vàng sậm điểm xuyết những đốm hoa màu trắng.
Chiều nay khi những giọt nắng đang lao xao ngoài song cửa, những tán cây thầm thì trong gió chuyện nhân gian, anh bỗng nhẹ nhàng nhớ đến em, người con gái "vội cất bước quên dấu yêu ngọt ngào" ngày ấy. Anh trầm mình trong ký ức về “từng góc phố bâng khuâng dịu êm”. Anh tình cờ biết được một bản tình ca mà tác giả của nó cảm giác rằng nó bị thất lạc khá lâu rồi như chuyện chúng mình vậy đó em: "Lời hát ấy hôm nao miên man, ru em một thời Từng ánh mắt bao dung đam mê, cho em ngọt bùi"
Sau công phu sáng, bước ra nhà bếp xé tờ lịch thì hiện ra hôm nay là ngày 6 tháng 6 năm 2020. Ngày 6 tháng 6, bỗng như que diêm nào bất ngờ bật lên trong ký ức tôi đã từ lâu lắng xuống. Tại sao hôm nay lại bật lên? Biết rằng băn khoăn cũng chẳng có câu trả lời, như mưa mới rạt rào đây mà giờ nắng đã lên rực rỡ. Muôn sự còn muôn thẳm sâu mà sự phán đoán ước lệ của suy tưởng vật lý chưa chạm tới được sự mầu nhiệm của tâm linh. Đủ duyên thì lộ, chưa đủ duyên thì ẩn. Chấp nhận vậy thôi. Ngày 6 tháng 6 năm 1944. Ngày có tên lịch sử là D-Day.
Sau hơn một tháng, các chuyên viên Public Health làm việc không ngưng nghỉ, CDC công bố 60 trang guidelines hướng dẫn chi tiết cho "đời sống cùng với COVID-19" ở các trường học, các trung tâm giữ trẻ, các nhà hàng, và các cơ sở thương mại từ lớn đến nhỏ.... Mới nhìn thoáng qua thì dễ bị...."ngộp" vì quá nhiều yêu cầu, nhưng chi tiết không có nghĩa là không thể thực hiện. Cho đến lúc nào có vaccine chủng ngừa, không còn lựa chọn nào khác. Lâu dần đời cũng quen. Một cách lạc quan, khả năng thích ứng với lối sống mới của mỗi người, thêm một lần nữa, được thử thách.
Một buổi chiều im vắng bên dòng sông Cái Lớn. Theo hướng gió mơn man trên rừng dừa nước, Tím đẩy mái chèo một cách khoan thai, nhẹ nhàng. Chiếc xuồng nhỏ rẻ nước, lặng lờ trôi ngang đồn Nghĩa Quân. Tiếng đàn và tiếng hát nghe văng vẳng xa xa. Khi xuồng đến gần, Tím thấy một người lính đang ôm “cây đàn số 8” – do trẻ em trong làng đặt tên; vì không đứa nào biết cây đàn này tên là Guitar mà chỉ thấy thùng đàn giống như số 8 – ngồi trên hầm chống pháo kích.
Xe đò vừa vào Phan Rang thì kỷ niệm cũng vừa tràn về thốc tháo trong lòng bà, như làn gió nóng của miền Trung nắng cháy đang lùa vào các khung cửa xe một cách hăm hở. Bà gỡ đôi kính mát xuống để nhìn hai bên đường cho rõ hơn. Phan Rang. Con đường Thống Nhất. Bốn mươi năm. Nhưng bà ngạc nhiên vì thấy mình không đến nỗi lạc lõng sau những năm tháng dài như thế. So với nhiều thành phố khác, Phan Rang dường như không thay đổi gì mấy. Rõ ràng là con đường cũng như mấy thập kỷ qua, không được mở rộng ra chút nào. Từng hàng cây cổ thụ dễ đến trăm năm vẫn còn lác đác chạy dài theo hè phố. Nhà cửa có lô nhô nhiều căn cao hơn trước, nhưng chưa đủ để thành phố có một khuôn mặt khác lạ đối với người lữ khách lâu ngày vừa trở lại.
Tiếng khánh réo rắt ngân dài và lan toả trong không gian như những vòng sóng tròn, càng loang xa vòng tròn càng lớn, bao trùm cả đất trời. Âm thanh bay lên tận trời xanh, xuyên thấu vào lòng đất như mũi dùi chọc thủng cả địa ngục A Tỳ. Bọn quỷ đói rùng rùng kéo về hướng phát ra tiếng khánh, chúng đông hơn quân Nguyên, hình thù quái dị, trông gớm ghiếc vô cùng. Cứ thường lệ mỗi buổi chiều, chúng ngóng đợi tiếng khánh để được ăn bữa chiều.
Cũng vì ích kỷ muốn ăn ngon, muốn ăn bổ, nên con người đã tạo cho con virus Corona có cơ hội lây từ thú sang người ở Vũ Hán và chỉ với một thời gian ngắn đại dịch đã bùng phát gần như ở tất cả các quốc gia trên thế giới, hiện nay vẫn còn tiếp diễn chưa chịu dừng lại.
Một trong những cuộc đua Marathon nổi tiếng, và lâu đời nhất thế giới dành cho người tham dự từ nghiệp dư đến chuyên nghiệp từ khắp các quốc gia là Boston Marathon bị hủy bỏ . Cuộc đua truyền thống dài hơn 26 miles (khoảng 42km) hàng năm chạy qua 8 thành phố của Massachusetts bắt đầu từ năm 1897 chỉ có 15 người tham dự, là một trong 6 cuộc đua Marathon quan trọng nhất thế giới hàng năm. Lần đầu tiên trong 124 năm, sự kiện thể thao hàng năm -có lúc quy tụ đến nửa triệu người quan sát và hơn 38 ngàn vận động viên- bị hủy bỏ trong năm 2020 vì đại dịch cúm Tàu. Ngay cả trong hai thế chiến (1914-1918 và 1939-1945), Boston Marathon vẫn được tổ chức , và là một truyền thống văn hóa cả trăm năm của Bostonians.
Đó là một buổi chiều, lớp tôi được nghỉ môn học giữa giờ vì cô giáo bịnh. Chúng tôi, ba đứa bạn thân và tôi, rủ nhau ra ngoài trường, tản bộ trên vỉa hè quen thuộc có hàng cây rợp mát. Đi dọc theo đường Bà Huyện Thanh Quan, ngắm những căn biệt thự nằm khuất bên trong khoảng sân rộng, bốn đứa chúng tôi hỏi nhau căn nhà nào đẹp, và thích căn nào. Đứa thích nhà trồng nhiều hoa. Đứa thích nhà có cửa sổ bốn phía, v..v... Bỗng dưng tôi nghe có tiếng dương cầm văng vẳng trong gió khi vừa đi qua. Tôi dừng chân trước một biệt thự cổ kính. Âm thanh phát ra từ trên lầu. Tôi ngắm kỹ ngôi nhà và thấy bức tường đá của nó được phủ kín bởi một loại dây leo có lá nhỏ tròn, bò ngộ nghĩnh. Bức tường cao quá nên tôi không thấy gì bên trong, chỉ nhìn qua song cửa sân. Lúc đó tôi sợ bị người ta bắt vì tội nhìn lén nên đứng xớ rớ một lát rồi đi.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.