Hôm nay,  

Onusa

21/03/202110:06:00(Xem: 3566)

 


Nó lử lử lừ đừ quạt nhẹ cái vây, sức yếu quá không còn đủ mạnh để bơi ngược dòng hải lưu, có lúc nó nổi phập phều mặc cho con nước đưa đẩy, cái tấm lưng của nó dập dềnh trên mặt nước, bụng quặn đau kinh khủng, cơn đau triền miên kéo dài hai tháng nay. Nó không thiết gì ăn nữa, xung quanh nó những đàn cá hồi, cá he, tôm krill đông đặc như đám mây đen vần vũ. Bình thường thì nó đã há cái mồn to tướng ra cho nước ào ào chảy vào, mang theo bao nhiêu tôm cá, sau đó nó ngậm mồn lại, nước được phun ra qua kẽ răng, còn lũ tôm cá thì lọt xuống bao tử. Giờ thì nó mặc kệ, nó không còn sức để  ăn và linh cảm sắp rời bỏ đại dương rồi. Nó sinh ra và lớn lên ở đây, nó đã làm bá chủ đại dương mười lăm năm nay. Cư dân biển cả lẫn bọn ngư phủ đều kêu nó là nữ hoàng của đại dương. Nhiều kẻ quên cả tên của nó là Mauora, họ chỉ quen gọi nó là “ The queen of the ocean”. Quả thât nó là nữ hoàng của biển cả này, chỉ một cú quạt đuôi hay quăng mình của nó đủ làm kinh động ầm ầm một vùng biển cả. Nước mắt nó chảy ra hòa lẫn nước đại dương. Nó biết nó đang từ giã cõi đời vào cái thời kỳ sung mãn của vòng đời. Những cơn đau của cái bụng đã hành hạ lâu nay làm cho nó kiêt sức. Nó tiếc nuối và lo lắng cho hai đứa con còn nhỏ. Thằng Onusa và con Ohara vẫn bơi kè kè bên hông, hai đứa còn non nớt, vẫn còn uống những giòng sữa cuối cùng mà nó tiết ra. Mauora thều thào

- Mẹ yêu hai con nhưng mẹ không còn ở bên hai con bao lâu nữa đâu. Mẹ đi rồi, hai con hãy nhớ lời này: Đừng bao giờ rời xa vùng nước lạnh và hãy tránh xa những con tàu, những con tàu to lớn hơn cả mẹ nhưng rất nguy hiểm.

Onusa và Ohara thút thít

- Con yêu mẹ, mẹ đừng bỏ con đi!

Nước mắt Mauora chảy những giọt cuối cùng, mắt nó mờ dần, nó cố gắng lần cuối phọt những giòng sữa cạn kiệt vào miệng của Onusa và Ohara. Giọng nó ngút ngút ngắt quãng

- Mẹ yêu hai con...con…

Lời chưa dứt thì hơi thở cuối cùng đã tắt, lỗ thở trên đỉnh đầu phụt lên một làn hơi yếu ớt tạo ra một tí hơi nước rồi tắt lịm. Onusa và Ohara bơi vòng quanh xác mẹ nó mấy ngày liền, sau khi hai đứa biết chắc rằng mẹ chúng nó đã chết, từ đó chúng mới chịu bơi đi. Hai đứa bơi lòng vòng những ngày sau đó với cái bụng trống rỗng, không còn giọt sữa nào. Chúng nó đói, bản năng sinh tồn khiến nó biết cách đi tìm những đàn tôm krill, đấy là món khoái khẩu của dòng tộc nhà chúng. Khi thấy đàn tôm, hai đứa bắt chước mẹ nó, hả cái mồn thật to để cho nướcc biển lẫn tôm krill chảy ào ào vào họng. Bữa săn đầu đời không tệ chút nào, cái bụng của chúng tạm no, chẳng mấy chốc chúng biết cách sinh tồn giữa đại dương mênh mông này. Những ngày sau nữa chúng bơi dần xa hơn chốn cũ để tìm những đàn tôm kirll khác, gặp những con sứa biển đẹp tha thướt chúng cũng nuốt ngon lành.

Một ngày kia hai đứa quá say sưa nên lạc đến một vùng biển lạ, lập tức những con cá khổng lồ như mẹ nó bơi đến ngăn chặn và xua đuổi. Hai đứa đã xâm phạm lãnh hải của những con cá voi khác. Lúc ấy hai đứa thấy một con cá voi con, có lẽ cũng trạc tuổi chúng, con cá voi con ấy bơi đến khoảng giữa mẹ nó và hai đứa

- Mẹ ơi, hai đứa kia dễ thương mà mẹ, để tụi nó chơi với con!

Con cá voi mẹ lắc đầu quầy quậy

- Không được! Chúng ở lại đây thì chúng ta không đủ thức ăn!

Con cá voi con không cần mẹ nó đồng ý, nó bơi sáp lại Onusa và Ohara. Nó quạt đuôi quẫy nước vào hai đứa tỏ vẻ thân thiện

- Các cậu tên gì? Tớ là Muosa, mẹ tớ tên Rouda và ba tớ là Tuoga

Onusa trả lời

- Tớ là Onusa và em gái tớ là Ohara. Mẹ tớ bị đau bụng mới chết tuần rồi, giờ bọn tớ không có mẹ

Muosa mủi lòng

- Thật buồn cho các cậu, hay là các cậu ở lại đây với gia đình tớ?

Không đợi hai đứa trả lời, Muosa bơi lại bên mẹ nó thủ thỉ

- Mẹ ơi, hai đứa nó mới mất mẹ, hãy để hai đứa nó ở lại làm bạn với con!

Rouda và  Tuoga ngần ngừ, thân mình lắc lư trong làn nước mà không nói gì. Muosa reo lên

- Vậy là ba mẹ đồng ý hén!

Muosa lập tức quay lại với Onusa và Ohara, bọn chúng vui đùa ầm ào, tung mình lên hư không và rơi đùng đùng xuống nước. Chúng quẫy đuôi, đập nước ầm ầm, những cơn sóng do chúng tạo nên phá vỡ sự yên lặng của đại dương. Chúng tíu tít như đã quen tự thuở nào. Rouda và Tuoga nhìn chúng trìu mến, không còn ý nghĩ xua đuổi hai đứa nữa. Rouda bảo Tuoga

- Con nít quả thật ngây thơ và trong trắng, chúng đến với nhau tự nhiên, chẳng có khúc mắc và mưu tính như bọn chúng ta.

Rouda và Tuoga bơi rộng vòng ngoài, dường như có ý bảo vệ và cũng tạo khoảng cách thoải mái cho bọn trẻ vui đùa.

Sau mấy mùa băng tan trên biển, cả ba chúng nó phổng phao ra, chúng lớn nhanh như thổi. Onusa giờ tuấn tú dõng mãnh như ba của nó ngày xưa. Mẹ nó từng kể ba nó là một chiến binh vĩ đại của đại dương, là niềm kiêu hãnh của họ nhà cá voi. Một lần kia, khi ba nó phát hiện con tàu khổng lồ có treo mảnh vải trắng với hình tròn đỏ ở giữa. Ba nó rít lên báo động cho mẹ nó và những con cá voi khác hãy lặn thật sâu. Lúc đó nó vừa tượng hình trong bụng mẹ. Ba nó bơi nghễu nghện trước con tàu đó, phụt những vòi nước thật cao để dụ con tàu đi xa khỏi bầy cá voi. Ba nó đã trả giá bằng mạng sống để cứu mẹ con nó và những con cá voi khác. Con tàu có mảnh vải trắng với vòng tròn đỏ đã kéo ba nó lên boong tàu để xẻ thịt. Ohara và Muosa thì ra dáng xuân thì như mẹ của chúng. Dường như Onusa đã đem lòng yêu Muosa, tuy nó chưa đủ trưởng thành nhưng đã tỏ ra dáng vẻ của một chiến binh biển cả và khí độ của một chúa tể đại dương. Muosa thưa với Rouda

- Chúng con đã lớn, mẹ cho phép chúng con chu du một chuyến nhé? Chúng con muốn khám phá những vùng biển mới!

Cả Rouda và Tuoga trìu mến nhìn ba đứa gật đầu. Rouda căn vặn

- Các con hãy lên đường học hỏi để mở rộng tầm nhìn. Các con không thể ở mãi nơi này, nhưng các con cần nhớ rằng: Đừng bao giờ rời xa những vùng nước lạnh, tránh thật xa những con tàu đồ sộ trên mặt biển. Những con tàu ấy có cái lưỡi dài và rộng kinh khủng, chúng sẽ kéo các con lên trên ấy để sát hại. Chúng có những mũi lao to lớn phóng ra cắm ngập vào thân chúng ta, hễ thấy bóng dáng chúng là lập tức bơi thật xa, lặn thật sâu!

Onusa giật mình, những lời này sao giống hệt những gì mẹ nó trăn trối trước lúc chết. Onusa và Muosa lập tức vẫy đuôi bơi đi. Riêng Ohara thì ở lại, nó giờ đã thành mẹ kế của Muosa rồi. Onusa và Muosa bơi từ bình minh cho đến hoàng hôn, rồi hoàng hôn lại đến bình minh, ngày nối tiếp ngày, dặm dài đại dương bao la mở ra những khung cảnh mới lạ. Hai đứa gặp những cư dân biển cả xa lạ mà trước giờ ở vùng biển lạnh chưa hề thấy, thỉnh thoảng hai đứa ngoi lên thấy núi thẳm rừng xanh khác xa với những tuyết sơn băng đảo của quê hương chúng. Hai đứa thấy đói nhưng ở đây tuyệt nhiên không thấy một con tôm krill hay con cá hồi nào cả, bù lại cơ man nào là cá mòi, cá trích, cá đối… và vô số các loại khác nữa. Những đàn cá đông đặc lên đến cả vạn con, những loại cá này quây quần như những cụm mây rồi tản ra như làn khói. Onusa và Muosa không cần tốn sức, chúng chỉ cần hả miệng ra thì bao nhiêu là thức ăn theo dòng nước chảy vào . Hai đứa mải mê với cảnh vật mới lạ mà quên mất lời dặn dò của các bà mẹ. Chúng đã đi quá xa, đã đến vùng biển ấm. Ban đầu chúng thoảng chút lo lắng, nhưng cảnh vật đẹp đẽ làm cho chúng quên mau chóng. Cả hai sung sướng với vùng đại dương nước ấm này. Dáng vóc của Onusa và Muosa kỳ vĩ to lớn, đủ để lũ cá mập vốn hung hăn dữ tợn và phàm ăn cũng phải sợ  mà lảng ra xa.



Một con rùa già dường như đuối sức, mặc cho thân hình dập dềnh bên chúng. Onusa thấy hành vi của con rùa già sao giống mẹ nó những ngày bị đau bụng sắp chết. Rùa già thấy con cá voi quan sát mình nên cất giọng thều thào

- Tôi là Lohuka, tôi đã bảy mươi lăm tuổi rồi. Họ nhà tôi sống ở vùng biển này đã bao đời, chúng tôi thích ăn những con cá mại , rong biển và lũ sứa biển. Ấy thế mà gần đây họ  hàng nhà tôi nhiều người bị đau bụng đến chết vì nuốt sứa biển, đã có rất nhiều kẻ chết, thật không hiểu tại sao! Tôi cũng vậy, bụng tôi đau kinh khủng sau khi nuốt sứa biển. Tôi không còn cảm giác đói, không thể ăn nuốt gì nữa, sức kiệt dần, có lẽ tôi sẽ chết nay mai thôi! Các bạn đừng nuốt lũ sứa biển ấy nữa, kẻo không lại đau bụng đến chết đấy!

Onusa chột dạ, ông ấy sao giống hệt mẹ mình, nuốt những con sứa biển và đau bụng đến chết, những con sứa biển giờ sao mà đầy đặc ở đại dương. Onusa còn nghĩ ngợi thì rùa Lohuka tiếp tục thều thào

- Bọn người trên bờ bỏ vào đại dương vô số rác và những tấm lưới giống như rong biển. Họ hàng tôi và những cư dân biển cả bị vướng vào cổ mà chết ngạt

Rùa già Lohuka chưa dứt lời thì bỗng nhiên xuất hiện một bầy cá heo, chúng nó nô đùa ầm ĩ, thi nhau tung mình nhào lộn trong không trung. Một con cá heo lân la lại gần Onusa, nó nghe rùa Lohuka nói thế bèn góp lời

- Tôi là Potunga, bọn tôi sống ở vùng biển ấm, bọn tôi cũng thích bơi vào gần bờ. Ngày trước gần bờ thức ăn nhiều lắm, nhưng giờ cũng cạn kiệt rồi, vả lại biển gần bờ rất nguy hiểm, nhiều cạm bẫy nào là lưới, cần câu, đăng, đó… Có những vùng biển gần bờ giờ bị bọn người trên bờ xả những thứ nước độc hại, có loại đen ngòm, có loại vàng nhờ nhợ, có loại đỏ lòm...mùi những thứ nước ấy rất kinh khủng. Cư dân biển gần bờ tiếp xúc các loai nước ấy chết sạch ráo. Họ hàng và bạn bè tôi cũng chết khá nhiều vì thứ nước ấy. Nếu chúng ta uống hay bơi trong nước ấy thì sẽ bị lở loét, có kẻ thì chết ngay lập tức nhưng cũng có kẻ lây lất sống dở chết dở.

Onusa và Muosa rùng mình kinh sợ, chúng không ngờ loài người trên bờ độc ác như thế, những thứ nước và rác độc dễ sợ thật. Thân thể chúng chỉ có những mảng hàu và hà bám đủ khó chịu huống chi là chẳng may bị lở loét vì những thứ nước ấy. Con rùa già một lần nữa lấy hết sức tàn lực kiệt để cảnh báo 

- Các bạn cá heo, cá voi và các loài khác hãy cẩn thận! Đừng nuốt những con sứa, tránh mấy tấm rong biển và những vùng nước đổi màu ấy, kẻo không thì chết cả đám!

Nói xong lời này. Rùa già Lohuka tắt thở, xác nó nửa chìm nửa nổi trong làn nước biển, sóng gió đẩy đưa cho đến khi tấp vào bờ. 

Năm ấy, sau khi  the Queen of the ocean chết, xác nó trương phình cứ như một hòn đảo nhỏ giữa biển khơi, sóng nước và gió đẩy đưa cho đến khi mắc cạn ở một vùng biển nhiệt đới. Ngư dân làng chài Nhơn Hải đang đánh cá ngoài khơi trông thấy, họ kêu gọi các tàu hiệp sức kéo xác Mauora vào bờ. Làng chài Nhơn Hải xôn xao hẳn lên, người người đổ ra xem ông lụy, tiếng ông lụy đồn nhanh như gió thổi. Dân chài các làng khác cũng đổ về. Anh Hai Hưng, một bạn đi biển tỏ vẻ ngạc nhiên, lớn tiếng nói to với mọi người đang bâu quanh

- Ông lụy, ông lụy! Tôi chưa từng thấy ông nào to như ông này!

Cụ Bảy Bình, một tay đi biển lão luyện có thâm niên gần cả đời người cũng không ngớt lời

- Tui đi biển từ khi mới mười lăm tuổi, giờ đã bảy mươi lăm rồi. Tui từng nhiều lần thấy ông lụy, nhưng chưa lần nào thấy ông to chà bá như thế!

Cả làng lập tức cúng tế ông, họ bàn bạc và quyết định sau khi ông rũ xương, đem cốt ông thờ tạm ở Hải lăng, sau sẽ xây một cái lăng mới to lớn cho tương xứng với bộ xương của ông này! 

Khi ông được kéo vào bờ, Người của chính quyền sở tại và viện hải dương cũng có mặt. Họ bảo phải để cho họ giảo nghiệm tìm xem lý do cá voi chết. Ban đầu dân làng chài phản đối, nhưng sau khi nghe lời thuyết phục của vị viện trưởng và sức ép của nhà cầm quyền họ mới chịu để cho các nhà khoa học thực hiện giảo nghiệm. Nhiều ngư dân phụ họ xẻ thịt cá voi, các nhà khoa học mổ bao tử cá voi và mọi người kinh ngạc khi thấy có cả trăm ký lô túi nylon, rác thải nhựa, lưới đánh cá… trong bao tử của nó. Các nhà khoa học của viện hải dương viết báo cáo khoa học:

“ Con cá voi Mauora chết vì đói, vì đau bụng. Nó đã nuốt cả trăm ký lô rác thải nhựa, rác thải sinh hoạt lẫn rác thải công nghiệp. Con cá voi này và cũng như những cư dân biển cả khác, chúng tưởng những cái túi nylon là sứa biển, những tấm lưới đánh cá là rong biển. Chúng nuốt vào và chúng bị đau bụng, khi nuốt quá nhiều rác nhựa chúng sẽ không còn ăn gì được nữa vì thế mà kiệt sức và chết đói. Đời sống tự nhiên của đại dương đang bị nguy hiểm, nhiều loài có khả năng tuyệt chủng, rác thải và hóa chất độc hại đang ngày đêm tuồn thẳng vào đại dương. Chúng ta phải hành động, cứu lấy đại dương!...” 

Onusa và Muosa tiếp tục cuộc hành trình của chúng, càng bơi xa hơn càng khám phá thêm những điều mới lạ, những vùng biển mà trước giờ chúng chưa từng nghe mẹ chúng nói đến. Cho đến một hôm cả hai gặp phải một con quái vật to thù lù ở giữa lòng đại dương, vùng nước tối lờ mờ. Con quái vật còn to hơn chúng rất nhiều, nó phát ra tiếng kêu rì rầm, có lúc thì lại rít lên xoen xoét như xoáy vào đầu, những âm thanh thay đổi liên tục. Onusa và Muosa mới đầu định bơi thât gần tính tiếp cận với con quái vật ấy, nhưng âm thanh của nó làm cho cả hai phải lảng ra. Con quái vật vẫn lù lù tiến tới, tiếng kêu con quái vậy làm cho Onusa và Muosa buốt cả óc, cả hai trở nên giận dữ cực độ. Chúng nó quay cuồng hoảng loạn, âm thanh con quái vật làm cho cả hai choáng váng, chúng nó nhắm mắt bơi loạn hướng, không còn khả nặng định hướng nữa, cái khả năng định hướng như cha mẹ và tổ tiên của chúng tự nhiên biến mất. Onusa và Muosa cứ thế bơi cho đến rã rời kiệt sức, chúng muốn quay trở về vùng biển lạnh nhưng giờ không còn biết hướng nào mà bơi, chúng cứ bơi cho đến khi không còn bơi được vì sa vào một vùng biển ấm và cạn cợt. Cả hai nằm thoi thóp, Onusa vỗ về Muosa nhưng lòng của nó cũng hoang mang tột độ. Nó không ngờ lại kết thúc cuộc đời ở vùng biển ấm này. Nó hối hận vì đã không nghe lời nó trăn trối của mẹ nó, không nhớ lời mẹ Ruoda căn vặn trước lúc viễn du. Nước mắt nó chảy ra và lịm đi.

Khi nó mở mắt tỉnh dậy thì có cảm giác cả thân mình nó bị lôi ngược. Nó cố vùng vẫy nhưng cái đuôi có sợi dây buộc. Nó nhướng mắt nhìn về sau thì thấy hai con tàu màu xanh với những sọc đỏ chạy dọc hai bên lườn đang kéo nó ra khơi. Muosa cũng được hai con tàu khác lôi ngược ra xa. Khi cả thân mình to lớn của nó vẫy vùng dễ dàng trong làn nước biển thì sợi dây buộc ở đuôi được tháo ra. Nó ngoái đầu lại kêu “hoop hoop hoop” liên hồi. Nó không biết nói tiếng của loài người, nó cảm ơn những con tàu đã kéo nó về biển sâu bằng âm thanh của nó. Cả hai sung sướng lấy đuôi quạt nước tung tóe như giã biệt những con tàu. Onusa và Muosa ra đến vùng nước sâu hụp xuống rồi cùng trồi lên, phụt hai cột nước thật cao sau đó mới bơi đi. 


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 02/2021 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bài viết “Đánh Trận Là Một Nghệ Thuật” đã được đăng trên “The Journal of Military History” số 68 vào năm 2004. Đây là một quyển báo rất có uy tín của quân đội Hoa Kỳ từ năm 1937, chuyên đăng những bài nghiên cứu có giá trị về lịch sử quân đội của mọi nơi trên thế giới. Dù đã ra đời mười sáu năm, bài viết này có một giá trị lịch sử đặc biệt vì người viết đã tham khảo rất công phu nhiều tài liệu của cả Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ và Bắc Việt. Bài viết này đã được Cố Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa nhận định là chính xác đến 95%.
Máu đã đổ suốt từ thời chiến tranh cho tới lúc hòa bình 45 năm nay, những giọt máu của người dân trong nước khao khát nền Tự Do Dân Chủ vẫn còn chảy trong nhà tù với những bản án khắc nghiệt dành cho họ và những người đã chết đều có thật. Rất thật.
Vào sáng ngày 1 tháng 5-1975 Trung tá bác sĩ Hoàng Như Tùng, nguyên chỉ huy trưởng Quân Y viện Phan Thanh Giản - Cần Thơ, mặc đồ dân sự, trong tư thế quân phong, đưa tay lên chào vĩnh biêt Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lênh Quân Đoàn IV, Quân Khu IV, Vùng 4 Chiến Thuật, trước sự kinh ngạc của một nhóm sĩ quan cấp cao của bộ đội cộng sản vì sự dũng cảm của bác sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng. Một sĩ quan của bộ đội cộng sản mang quân hàm thiếu tá tiến đến và yêu cầu bác sĩ Hoàng Như Tùng nhận diện Tướng Nguyễn Khoa Nam.
Dù tôi đã sống trên đất Mỹ nhiều năm rồi, nhưng thỉnh thoảng, trong giấc ngủ hằng đêm, tôi vẫn gặp ác mộng về những lần trốn chạy kinh hoàng của một người bị săn đuổi. Choàng tỉnh dậy giữa đêm, tôi nhớ lại rất rõ nét những giấc mơ vừa trải qua, mồ hôi toát ra như tắm vì tôi như vẫn còn nghe văn vẳng đâu đây tiếng kẻng báo thức rõ mồn một, tiếng kẻng của các trại giam cộng sản Việt Nam được làm bằng những cái niềng (rim) xe hơi và dùng 1 thanh sắt gõ vào tạo thành 1 âm thanh vang rất xa. Ai từng ở tù hay bị đày ra những trại cưỡng bức lao động, hoặc trại tập trung cải tạo của cộng sản Việt Nam thì không bao giờ quên được tiếng kẻng này.
46 năm sau biến cố cưỡng chiếm Hoàng Sa 1974, và 32 năm sau vụ thảm sát Gạc Ma nơi quần đảo Trường Sa 1988, cả hai đều do bàn tay vấy máu của Trung Cộng. Không chỉ bằng vũ lực, Bắc Kinh nay còn viện dẫn Công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng ký như bằng chứng pháp lý gây khó khăn cho Việt Nam trong tranh chấp chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Kim lái chiếc xe Honda đi biếu cái bánh chưng cuối cùng vào lúc 7 giờ sáng ngày 30 Tết năm 1975. Tuy có bao nhiêu lần thức khuya học bài, nhưng đây là lần đầu tiên Kim thức trắng đến sáng, cái đầu nhức như búa bỗ, óc trống rỗng, người lâng lâng như muốn bay lên mây...
Mở đầu nhật ký tuần này xin được góp phần tưởng nhớ các nhân viên y tế, đặc biệt là các y tá (những thành viên trong đội ngũ thiên thần áo trắng ở tuyến đầu chống dịch bệnh Vũ Hán) ở khắp nơi trên thế giới đã "sinh nghề tử nghiệp". Tính đến đầu tháng 4 năm 2020, đã có hơn 100 "thiên thần áo trắng" qua đời vì bị lây nhiễm Coronavirus từ bệnh nhân, hơn một nửa là nhân viên y tế ở Ý.
Những dòng ký sự và nhận định sau đây, tường thuật lại những biến cố xảy ra tại Trường Y Sàigòn từ năm 1967-1971 và sau đó...do sự can thiệp của phái bộ Hội Đoàn Bác sĩ Mỹ -American Medical Association tại Saigòn (AMA-SAIGON) vào nội bộ Trường Y Saigon. Những sử liệu của bài nhận định này đều dựa trên những điều tường thuật của quyển sách thời danh SAIGON MEDICAL SCHOOL do 3 người viết: CH William Ruhe MD, Norman Hoover MD và Ira Singer PhD, tất cả ba vị này đều là nhũng người lãnh đạo và cố vấn cho cuộc can thiệp của phái bộ AMA vàoTrường Y Saigon từ năm 1967. Tập sách SAIGON MEDICAL SCHOOL do chính cơ quan AMA, xuất bản tại Mỹ năm 1988.
Dạo đó, đầu thập niên 70, dưới giàn hoa giấy, trong khoảng sân nhỏ nhà chúng tôi, thỉnh thoảng có những người lính thuộc mọi binh chủng của Quân lực VNCH. Họ ngồi hút thuốc, hay tay đàn miệng hát vì trong cư xá Đoàn Văn Cự ở Biên Hòa có khá nhiều chị đang học lớp 12 rất đẹp. Nhà chúng tôi ở đầu cư xá nên các chị thường phải đi ngang nhà chúng tôi trước khi về nhà mình.
Mẹ tôi bán thuốc tây để dành được một ít tiền cho chị em tôi đi vượt biên. Chuyến đầu mẹ cho ba chị em tôi đi nhưng bị đổ bể, đợt hai mẹ cho chị tôi đi với gia đình dì, và được Cap Anamur Đức vớt, đưa đến Đức vào năm 80. Một năm sau mẹ gửi hai anh em tôi cho cô chủ tàu ở Cần Thơ và chúng tôi được đưa lên tàu đánh cá nhỏ có 89 người.Thuyền rời bến, ngày đầu chúng tôi được phát nước uống, qua ngày thứ hai thì không còn giọt nước nào. Lúc đó vào tháng năm, nắng nóng, thuyền lại không có mui che nên ai cũng mệt lả, thuyền đông người lại quá chật hẹp không cựa quậy gì được, tôi chỉ cần nhút nhích một chút là bị người ta nhéo. Lúc đó tôi chỉ thấy chung quanh là biển rộng mênh mông, tôi nhớ nhà và cầu mong sao cho bị bắt để được về nhà lại.Trên thuyền bắt đầu có một chị bị sảng vì thiếu nước uống, rồi thì không biết ai đó lấy lon Guigoz truyền nước uống cho nhau nhưng ai hớp vô rồi cũng phun ra vì đó là nước biển, mặn quá, tôi cũng không ngoại lệ.
Trời Chicago cuối tháng Tư vẫn còn lạnh. Tuy thế anh em đi dự buổi họp điều-trị-tâp-thể đông hơn thường lệ. Nhiều anh em sĩ quan ở các nhóm khác, không phải họp hôm nay, họ cũng đến. Phòng họp dành cho buổi điều-trị-tập-thể của các anh em sĩ quan H.O. tại Asian Human Services -Chicago rộng rãi và tươm tất, được trang hoàng trang nhã với những bức tranh ấn tượng của Claude Monet, màu sắc hàì hòa gợi nhớ về một thuở thanh bình.
Thôi thì khỏi nói, mọi người tay bắt mặt mừng, ai ai cũng vui như hội. Bà Tám đầu hẻm oang oang: - Thằng nhỏ coi bộ phổng phao ghê vậy ta, hồi còn ở đây gầy nhom, da bánh mật. Nó qua bển một thời gian giờ thay da đổi thịt quá, nếu đi ngoài đường chắc tui nhận hổng ra. Cả nhà quây quần tíu tít, bia bọt khui lốp bốp. Tuị bạn ngày xưa bá vai kề cổ giờ cũng ra ông nọ bà kia hết trơn. Chỉ có mỗi thằng An là lẹt đẹt làm anh công chức quèn thôi!


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.