Hôm nay,  

Ba Hồn Ma Dưới Bức Tường Đá Đen

03/05/202116:14:00(Xem: 3898)

Ngày 17 tháng Chín này Đài Truyền Hình PBS sẽ cho trình chiếu tập tài liệu, 18 tập,  về cuộc chiến Việt Nam tựa đề là THE VIETNAM WAR của nhà làm phim tài liệu nổi tiếng là Ken BurnsLynn Novick.  Đã có nhiều cuộc thảo luận về bộ phim này với một số người có tiếng tăm trong cộng đồng Viêt Nam ở hải ngoại với nhiều ý kíến khác nhau về bộ phim.  Trong một cuộc phỏng vấn, Ô. Burns có phát biểu là bộ phim này không đưa ra câu trả lời mà nêu lên nhiều câu hỏi về cuộc chiến tranh “nhức nhối” này trong lịch sử của Hoa kỳ.  

Bài viết này được hư cấu để mạo muội nói lên quan một điểm cá nhân về cuộc chiến tương tàn và có mang tính  cách đấu tranh ý thức  hệ giữa hai khối Tự Do và Cộng sản này.  

Trước khi vào câu chuyện xin được nói sơ qua về nữ điêu khắc gia ngươì Mỹ gốc Hoa tên Maya Lin, tác giả của Bức Tường Đá Đen ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn, ghi danh các chiến sĩ Hoa Kỳ chết trong cuôc chiến tranh Việt Nam.

Sinh năm 1959 tại thành phố Athens, tiểu bang Ohio, Maya Lin gây được sự chú ý của công chúng khi cô là một sinh viên hai mươi ba tuổi ở năm cuối Đại Học Yale, cô đã đệ trình một đồ án để xây  Đài Tưởng Niệm Cựu Chiến Binh Mỹ chết ở Việt Nam sẽ được dựng lên  tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn và sau đó được trúng giải trong cuộc thi cấp quốc gia.  Cô được đào tạo như là một nghệ sĩ và một kiến trúc sư.  Là một người Mỹ gốc Hoa xuất thân từ một gia đình có văn hóa cao và nghệ sĩ tính.  Cha của cô là trưởng khoa mỹ nghệ tại Đại Học đường Ohio.  Mẹ của cô là giáo sư văn chương tại cùng đại học.  Lin đưa ra lời nhận xét là:” Là con cái của người di dân, bạn có được cái cảm thức về nguồn gốc của mình từ đâu đến.  Quê hương của mình là ở đâu?   Và cố gắng để tạo cho mình một quê hương [mới].”  Cô lấy nguồn cảm hứng cho các tác phẩm điêu khắc và kiến trúc của mình từ các nguồn văn hóa đa dạng, bao gồm từ lối tạo hình theo lối cây kiểng Nhật bản đến các kiến trúc của dân Da Đỏ Hopewell cho đến các tác phẩm tạo nên từ chất liệu bằng đất của các mỹ thuật gia của các thập niên 1960 và 1970.

Công trình nổi tiếng nhất của Lin là Bức Tường Tưởng Niệm Chiến Sĩ tử trận ở Viet Nam khắc ghi danh tính của những tử sĩ để tự bức tường nói lên ý nghĩa của cuộc chiến.  Bức tường nối kết một thảm trạng xãy ra ở một vùng đất xa lạ với miền đất tại thủ đô xứ Mỹ, nơi bức tường gắn chặt xuống đất.  Đồ án của cô được chọn trong số 1.400 đồ án đệ nạp, trong số đó các đề án của các kiến trúc sư nổi tiếng trên thế giới.  Sự lựa chọn này lập tức làm nổi lên nhiều tranh luận không những vì đây là một đồ án được phát họa không bị gò bó theo qui thức cổ điển mà còn vì tác giả là một phụ nữ và là một người Mỹ gốc Trung Hoa.  Có nhiều người đưa ra lời phê bình chế diễu là “[chỉ là] một tấm mộ bia khổng lồ”.  Bức tường tưởng niệm naỳ được Lin giải thích là “một vết rạn nức trên trái đất”, gồm hai bức tường bằng dá hoa cương, mỗi tấm dài 246 feet, nằm ở góc nghiên 125 độ.  Một bức hướng về phía Đền Kỷ Niệm TT Lincoln.  bức kia hướng về phía Đền Tưởng Niệm TT Washington.  Mỗi bức gồm có 70 tấm bia khắc tên hơn 58 ngàn người lính Mỹ     tử trận.  Tên của họ được liệt ra theo thứ tự thới gian từ 1959 đến 1975.   

Công trình xây dựng này giống như một vết cắt đã thành sẹo trên khung cảnh của thủ đô nước Mỹ, được cắt không nương tay vào Khôn Viên Washington nhưng lại hiện ra một cách đầy uy nghi ở cách nó rạch ra một không gian để trình bày cho công chúng niềm thống thiết và đau thương.  Tập chú vào cá nhân của từng nam và nữ quân nhân đã hy sinh trong trận chiến, đài tưởng niệm còn đáp lại đúng cảm xúc của từng cá nhân du khách viếng thăm.  Không có caí nhìn “đúng , sai”  khi người ta đến với Bức Tường Tử Sĩ vì  nó không muốn hô hào về chính trị hay cho những lý tưởng cuả Mỹ.  Điều nó muốn nói lên duy nhất là là cái giá của chiến tranh là mạng sống của con người.  Bây giờ xin được vào câu chuyện.  

    Nhân vật: Sam: hồn ma Hoa Thịnh Đốn, Bắc: hồn ma Hànội, và Nam: hồn ma         Sàigòn. Cả ba đều là tử sĩ trong cuộc chiến Việt Nam.

      Không gian: dưới Bức Tường Tử Sĩ ở Hoa thạnh đốn.

      Thời gian: nữa đêm khuya về sáng Ngày Kỷ Niệm Chiến Sĩ Trận Vong của Hoa Kỳ.

Sam:  Chào hai anh.  Hôm nay được gặp hia anh ở nơi tượng đài này quả thật là đặc biệt.

Bắc:  Đúng vậy.  Đối với tôi đây là một dịp hiếm có.

  Nam:  Tôi cũng xin đồng ý với hai anh đây là dịp để chúng ta có cơ hội để lắng nghe suy nghĩ của nhau về cuộc chiến mà mình đã hy sinh. 

Sam:  Đối với riêng tôi, tượng đài này đã làm được việc đem lãi sự an ủi lớn lao cho các bạn đồng ngủ của tôi và cho gia đình của họ.   Sau cùng, chúng tôi đã không bị quên lãng. 

Bắc:  Đúng như vậy.  Tuy về phần chúng tôi cũng được “Tổ Quốc Ghi Công” nhưng không có được ý nghĩa lớn lao như việc được tưởng niệm này của các anh.  

   Nam: Vế phần tôi tuy Nghĩa Trang Quân Đội của chúng tôi không được lớn lao như xứ anh nhưng toàn cỏi miền Nam ai ai cũng đều thương tiếc những người chiến sĩ  đã hy sinh cho Quốc Gia.

Sam:  Nói cho cùng thì dù dưới danh hiệu nào thì chúng ta cũng đã hy sinh vì đất nước của mình.  Chúng tôi là công dân của một xứ tự do, chúng tôi có thể chấp nhận hay thậm chí có kẻ làm cả  chuyện từ chối việc chiến đấu nữa!  Riêng tôi, tôi chấp nhận chiến đấu cho  lý tưởng Tự Do và thấy việc hy sinh của mình không là vô nghĩa.  Tôi chỉ buồn là vì chíng quyền không làm được việc gỉai thích cặn kẻ mục tiêu của cuộc chiến với đồng bào tôi, vì vậy đã đem lại sự bạc đải đối với những đồng đội của tôi còn sống sót cũng như đối với những anh em của chúng tôi đã hy sinh trong cuộc chiến, một cuộc chiến không phải là “vô nghĩa” như đã bị thành phần phản chiến miệt thị đặt tên.  

Bắc:  Trong môi trường bị gò rập theo khôn khổ, tôi sống ra và lớn lên trong cuộc “chiến tranh cứu nước”, không có lối thoát và không có đường nào khác để sống còn. Tôi chỉ biết lên đường để “giải phóng miền Nam đang bị áp bức và xâm lăng”.

Nam:  Còn thế hệ của chúng tôi may mắn hơn các anh được sống dưới chế độ Tự Do.  Chúng tôi được bày tỏ thái độ về cuộc chiến.  Cũng chính vì vậy mà một số người đã không thấy được cái tai hại khi đưa ra mặt tiêu cực của cuộc chiến làm nản lòng dân chúng và làm thiệt hại đến tinh thần chiến đấu của anh em chúng tôi. 

Sam:  Anh Nam à, đó cũng là sự nguy hại đưa đến sự chia rẽ ở lớp thanh niên thế hệ tôi làm rạn nứt nội bộ, chia rẽ trong dân chúng và làm suy yếu tiềm năng chiến đấu rồi cuối cùng đưa đến sự thất bại chua cay.

Bắc:  Này anh Sam, tôi xin có nhận xét là nếu các ngưòi lảnh đạo thời đó của anh có sự đánh giá chính xác về mục đích chiến đấu của mình và về tiềm năng và thực lực của phe chúng tôi thì các anh đã thắng từ lâu, tránh được sự chết chóc của chúng ta.  

Sam:  Anh nói có lý.  Baì học này cho tôi thấy rằng dù là một nước lớn, mạnh đến đâu nhưng không có một nhận thức rõ ràng về đường lối chiến đấu, không chuẩn bị tâm lý dân ở xứ mình và thu phục nhân tâm của dân ở xứ người, không nhất quán  về đường lối chiến đấu từ đầu thì không thể nào đánh thắng được kẻ địch dù đó là một nước kém hơn minh về mặt tài lực đến bội phần.  

   Nam:  Anh Sam, tôi đồng ý với thái độ quân tử mã thượng của các anh trong cuộc chiến Nam Bắc trong lịc sữ nưóc Mỹ khi xưa.  Không có sự nghi kỵ và đày ải người anh em của mình khi họ đã bị thất trận.  Từ đó đã đem lại được sự đoàn kết để mọi người được sống trong hoà hợp, thanh bình và ấm no.  Tôi cảm thấy đau buồn và thất vọng vì caí nhìn đầy thù hằnvà thiếu tinh thần mã thượng , tình đồng bào của kẻ đã “thắng” đối với người cùng giòng giống của mình!

Bắc:  Giờ đây ở cỏi thế giới vô hình này không còn ai là quan, ai là lính, không còn phe naỳ hay chủ nghĩa nọ, tôi nhận thấy nhận xét trên của anh Nam thật là chí tình, chí lý.

 Nam:  Chắc các anh cũng có nghe là thay vì tượng đài được dựng lên để tưởng niệm các chiến sĩ không phân biệt phe , miền thì tượng và mộ bia của tử sĩ miền Nam chúng tôi đã bị phá huỷ trong khi đó chiêu bài “Đại đoàn kết dân tộc” lại được rầm rộ hô hào.

Sam (nhìn Bắc): Vậy sao!?  Điều này làm tôi thật kinh ngạc và khó hiểu! (trong khi đó thì Bắc đưa mắt sang hưóng khác để tránh cái nhìn đầy thắc mắc của Sam.) 

Sam:  Thêm một thắc mắc của tôi nữa là người ta chiến đấu để thay cái cũ, cái đở, cái xấu bằng cái mới tốt đẹp hơn nhưng tôi thấy hiện trạng ở xứ các anh thì hình như lại trái hẵn,  Các anh có nhận thấy vậy không?

Bắc:  Theo tôi thì nước tôi bây giờ đã có nhiêu tiến bộ.  Các đô thị nổi lên như nấm và rất khang trang, tân kỳ.  Đời sống của dân thành thị văn minh không khác gì với các nước tân tiến trong vùng.  Sự đi lại và báo chí cũng được tự do hơn…

   Nam:  Có lẽ anh nói đúng đó. Nhà cữa ở các đô thị thì đầy vẻ lộng lẩy khác hẵn với đời sống vẫn còn cơ cực, lạc hậu ở nơi nông thôn hẻo lánh xa xôi.  Giai cấp tư bản mới của chế độ lên xe xuống ngựa, hưởng thụ tất cả những tiện nghi của thế kỷ được tập trung nơi các đô thị.  Người Việt ở xứ ngoài được thoải mái về thăm, ăn chơi, đưọc khuyến khích đầu tư miễn là đừng đá động, chỉ trích gì đến chính quyền!  Những điều này đều rất đúng!

Sam:  Tôi thắc mắc không biết tại sao đã mấy chục năm từ khi có sư thay đổi thể chế mà nước các anh vẫn còn là một trong những nước nghèo và lạc hậu nhất thế giới và tình trạng vi phạm nhân quyền, không tự do vẫn còn bị xem là đáng quan ngại vậy?  Nếu như nước nghèo thì mọi người đều nghèo, tại sao tôi lại thấy trong khi đa số phải vật lộn để kiếm ăn hằng ngày, trẻ con, người già phải đi bán vé số trong khi có một số người “không phải là dân” lại đi xe hơi mới, nhà lầu có hai ba cái, đất đai trong tay cả chục chục mẫu, tiền trong tay cả chục triệu đô la là sao vậy?

Bắc : im lặng không trả lời.

   Nam:  Trước kia ở chế độ tôi cũng có tham nhũng và hối lộ và có lẽ đây là một trong những nguyên nhân làm chúng tôi bị sụp đổ.  Chế độ mới với mục đích thay đổi cái dở cái xấu cũ nhưng tại sao tôi thấy hiện nay sự tham nhũng và hối lộ còn gấp trăm lần khi xưa.  Đó là một trong những điều mà tôi không thể nào hiểu được.  Anh Bắc có ý kiến gì không?

Bắc: im lặng không trả lời.

    Nam:  Hiện nay nhiều phụ nữ Việt vì nghèo túng phải chịu lấy chồng xứ ngoài và bị hành hạ, bóc lột như là kẻ nô lệ, chịu trăm bề nhục nhả.  Có người bị bán rao trên internet như đồ vật hay bị trưng bày trong tủ kiến như một món hàng thật là nhục cho cả nuớc mà không thấy kẻ có trách nhiệm lên tiếng bênh vực gì cả!  Anh Bắc thấy thế nào?

Bắc:  (cuối đầu buồn bả) Thật ra tôi cũng rất lấy làm nhục nhả , xấu hổ và đau buồn cho thân phận của phụ nữ xứ mình đó anh à.

     Nam:  Có điều tôi thực sự vô cùnh kinh hoàng khi các tượng bia tưởng niệm người chết vì vượt biển được dựng lên ở các đảo tỵ nạn bị yêu cầu phá huỷ vì nó là chứng tích cho cuộc ra đi tìm Tự Do vĩ đại nhất của dân Việt .  Cho dù những bia đó có bị phá hủy thì người đời vẫn xác nhận  là “ Trăm năm bia đá có mòn nhưng ngàn năm  bia miệng vẫn còn trơ trơ” phải không anh Bắc?

    Bắc im lìm không trả lời.

   Nam (quay sang Sam):  Anh Sam, trong cuôc chiến khi xưa, một bên là do sự lèo lái của Liên Xô, Tàu, một bên do sự cầm cương của các người lảnh đạo của xứanh. Cuối cùng vì quyền lợi của xứ anh, chúng tôi là đồng minh lại bị bỏ rơi sau khi hai bên đã âm thầm lém lút dàn xếp với nhau để người bạn của mình phải chết một cách tức tưởi làm phí đi không biết bao nhiêu là mạng thương dân và lính chiến như chúng ta là sao vậy anh? 

   Sam cúi đầu buồn bả lặng thinh.

    Nam:  Nói cho cùng, chỉ có thân phận bọn tôi là chịu nhiều thiệt thòi và cay đắng nhất.  Thua trong một trận chiến gần như là không có sự được hổ trợ tương xứng do sự trở mặt của bạn và sự thiếu thống nhất và sáng suốt trong việc chỉ huy của lảnh đạo phe mình, chúng tôi đã bị thành kẻ chiến bại.  Mồ mã không được yên, luôn bị kẻ thắng xem như kẻ địch thù.  Không có được một tượng bia tưởng niệm nơi quê hương của mình phải sống dật dờ nơi xứ người.  Còn có nổi buồn nào lớn hơn không mấy anh? Nhìn lại thì ra ba chúng ta đều có nổi buồn riêng của  phần mình.  

  Sam: Riêng tôi dù đã hy sinh cho nước mình nhưng tôi vẫn cản thấy buồn vì đã bị phủ nhận sự hy sinh chiến đấu ccho nước mình mãi đến ngày Bức Tường này được dựng lên để tỏ lòng tri ơn và tưởng niệm các chiến sĩ xấu số của thế hệ tôi.

Bắc:  Còn tôi, trước sự thật phủ phàng đi ngược lại với những gì được hô hào khi còn chiến đấu, tôi cảm thấy buồn cho thế hệ chúng tôi và cho sự bị áp chế và nổi cơ cực của đồng bào vẫn còn dai dẳng kéo dài.  

Nam:  Nổi buồn của tôi có khác với hai anh.  Tôi buồn vì sự hy sinh của chúng tôi    đã bị phản bội bởi sư thất tín vá ich kỷ của bạn bè và sự thù hằn nhỏ nhen hiểm độc của chính kẻ cùng màu da, tiếng nói với mình.

Trời bắt đầu rạng sáng.  Ba hồn ma gục đầu , nước mắt chảy dài trên má rồi từ từ tan đi theo làn sương khói.

   Buổi sáng hôm đó người viếng Bức Tường đầu tiên là bà mẹ của Sam.  Khi bà đặt bó hoa dưới tên con mình, bổng bà chợt thấy sương phủ trên mặt đá hoa cương lạnh đen bóng tụ thành nước chảy ràn rụa như nước mắt xuống ngang qua tên con mình được khắc: Sam America.  Dòng nước rớt xuống đọng ở ba chỗ.  Bà còn nhận thấy một điều rất lạ là chỗ nằm ở hướng Nam thì nước lại đọng nhiều hơn ở hai chỗ kia. 

                                                                                      

                                                                                              - viết lại tháng Ba , 2010


Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhạc sĩ Hùng Lân mất vào ngày 17/9/1986 tại Sài Gòn. Hôm nay, ngày 17/9/2025 tôi nhớ tới ông. Tính ra đã 39 năm. Ba năm trước, tại nhà thờ Phanxicô Dakao đã có một lễ giỗ 36 năm ngày mất của ông. Linh mục Đỗ Xuân Quế, chủ tế lễ giỗ, đã nói trong thánh lễ: “‘Hôm nay là lễ giỗ thứ 36 của ông Phêrô Hoàng Văn Hương tức là nhạc sĩ Hùng Lân. Ông là người đáng cho chúng ta trân trọng và quý nhớ. Vậy chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện cho ông được vào nước Thiên Chúa. Nếu ông đã được vào rồi thì xin nhớ đến chúng ta là những người đang tiếp tục cuộc hành trình nơi dương thế đang hướng về Nước Trời.” Sau thánh lễ là chương trình tưởng niệm trong đó có tiết mục trình diễn nhạc của Hùng Lân, cả nhạc đạo lẫn nhạc đời. Người dẫn chương trình cho tiết mục này là nhạc sĩ Cao Huy Hoàng, đến từ Phan Thiết. Ông chia sẻ: “Nếu ngày ấy, thầy Hùng Lân qua đời, Chúa hỏi ‘nén bạc của ta đâu?’, thầy có lẽ không trả lời hoặc chưa trả lời kịp thì hôm nay, chúng ta có thể nhìn lại và thấy được rằng nén bạc của thầ
« Chưa gặp em tôi đã nghĩ rằng, có người con gái đẹp như trăng… khi gặp em rõ thấy một bà chằng! » … Chằng tinh, hay chằn tinh là một loài người hay cũng coi là một loài quỷ hung ác. Tùy vào hoàn cảnh, tùy vào người ta gặp, ta đối diện. Nay thế giới có nhiều loại chằn tinh, chằn ở trong mọi lãnh vực, chính trị, văn hoá, kinh tế, giáo dục và cả trong xã hội v.v…Do đấy, ta muốn tìm hiểu nguyên do chằn ở đâu ra. Hẳn là trong văn hóa Nam Bộ Việt Nam - Ấn Độ - Khmer…? Theo tác giả Huỳnh Thanh Bình, chằn là một loại sinh vật truyền kỳ, làm hộ pháp, canh giữ chùa, tháp, chánh điện phật giáo nam truyền và chiếm vị trí quan trọng trong văn hóa và tâm linh của người Khmer nam bộ, phổ biến trong kho tàng truyện kể dân gian và tuồng tích sân khấu của đa phần người Đông Nam Á.
Cả ông ta và tôi cùng cười xòa. Ui, mình đúng là đãng trí thứ thiệt. Phần Lan đã gia nhập Eurozone từ 1999 và dùng Euro ngay từ buổi đầu như những quốc gia thành viên khác. Ngày trước, nhắc đến những thủ đô bắc Âu, người ta thường nghĩ đến Oslo giàu có của Na Uy, Copenhagen trẻ trung của Đan Mạch. Giờ đây, Helsinki dần dà từng bước góp mặt vào danh sách những thủ đô được du khách ưa chuộng. Sức thu hút của thành phố ngày càng tăng. Từ 15 năm nay, Helsinki là một trong những thành phố tân tiến nhất Âu châu.
Bà xỏ chân vào đôi dép, lê lẹp xẹp vào buồng. Bà lấy ra một bịch nhựa trong đó đựng trăm thứ lặt vặt không ra hình thù gì. Bà nhìn trước, ngó sau như người ăn trộm. Chị mua ve chai đứng ở ngoài cửa bếp. Như một việc đã quá quen thuộc, chị đón lấy cái túi, móc vào cái cân xách. Trước kia chị phân loại giấy ra giấy, nhựa ra nhựa, nay thì hai bên đã thỏa thuận với nhau là có một cái giá trung bình cho toàn thể. Bà thì nhìn đăm đăm vào mớ hàng lặt vặt ấy như nhìn một thứ gì quý giá lắm. Mà không quý sao được, vì đó là kết quả của nhiều tuần bà lượm lặt và cất giữ.
Cho tới bây giờ, thỉnh thoảng trong giấc ngủ tôi vẫn nằm mơ tới chuyện thi Tú tài và giật mình tỉnh dậy, mừng húm mà mồ hôi vẫn đổ ra. Trong lần thi Tú Tài I, tôi đã thức đêm thức hôm học đến bị yếu phổi. Chữ “Tú Tài” nặng nhọc với tôi như vậy tuy nghĩa của nó là “đẹp đẽ, có khả năng, tài giỏi”.Ông Tú Xương có lẽ cay đắng với chữ “Tú Tài” không kém gì tôi. Ông vác lều chõng đi thi tất cả 8 lần, từ khoa Bính Tuất (1886) tới khoa Bính Ngọ (1906). Ba lần đầu ông đạp vỏ chuối, tới lần thứ tư, năm Giáp Ngọ (1894), ông mới vớ được cái Tú Tài nhưng là Tú Tài đậu vớt, chữ ngày đó gọi là “Tú Tài Thiên Thủ”. Ông chết với cái danh Tú Tài, chẳng bao giờ kiếm được cái “Cử Nhân” mặc dù vẫn cặm cụi đi thi.
*SONG THAO Tôi chừ chỉ chơi thể thao trên ghế sa-lông, ngồi coi người ta chơi. Thứ tôi coi người ta chơi là hockey, tennis và đôi khi bóng tròn. Mình không còn khả năng thì coi người ta chạy nhảy cũng là một cách chơi. Cách chơi biết mình biết ta. Các ông bạn tôi cũng chơi như tôi. Có điều mỗi người chơi theo ý thích riêng của mình. Ông Hoàng Xuân Sơn, ông Luân Hoán cũng na ná như tôi. Nhưng ông Luân Hoán hơi ngả về bóng tròn. Ông Hồ Đình Nghiêm máu mê hơn. Ông sa đà vào bóng tròn. Thời gian vừa qua, ông coi giò coi cẳng các nữ nhân tranh giải bóng tròn thế giới FIFA một cách mê mệt. Ngày ngày ông bá cáo bà con trên Facebook tường tận về từng cặp chân vàng mà trắng, cô nào đá hay, cô nào chụp banh giỏi, ông rành như có họ hàng thân thiết.
Bạn có thể xem bài này như truyện ngắn. Có thể gọi là nhiều truyện ngắn trong một truyện ngắn, hay là ghép từ nhiều mẩu truyện. Bạn cũng có thể đọc như tùy bút, hay bản tin, hay là vân vân... nghĩa là bất cứ những gì có chữ, có thể đọc lên, có thể nghe được như âm thanh. Đó là những gì tự nhiên hiện lên trong trí nhớ của tôi, những gì tôi bất chợt nghe bên tai khi ngồi bên sông, ven biển, góc rừng, hay khi nửa đêm nhìn ra hàng hiên.
Chẳng hiểu vì sao, vào lúc bắt đầu cảm thấy già, tôi lại lẩm cẩm đi tìm lại định nghĩa về chữ “bạn”. Bạn tôi là ai? Tại sao tôi lại kết bạn với họ? Lúc trẻ đã từng có một thời suýt bị vợ bỏ vì “lo cho bạn nhiều hơn cho gia đình”; nhưng khi đến độ tuổi “lục thập nhi nhĩ thuận” tôi lại đâm ra làm biếng gặp hầu hết những nhóm bạn từng một thời thân thiết.
Hôm đó, cô nhất định phải giết cây dạ quỳnh. Khi đêm tối bao phủ, cô sẽ ra tay. Lấy một con dao bén để xắt cành lá nó ra từng mảnh nhỏ. Lấy chai thuốc Draino loại hủy hoại rễ cây để ngâm hết các rễ của nó. Nó phải chết một cách tiệt tích, không còn một chút cơ hội nào sống sót. Nó phải bị phơi khô trên cao vì Quỳnh đụng đất sẽ có thể mọc lại. Cô biết, giết Quỳnh là mất đi tiếng nói vo ve chị em tâm sự. Cô đơn khi có Quỳnh sẽ thay vào cô đơn không có Quỳnh. Cô sẽ bắt đầu một cô đơn khác.
Càng lớn tuổi chừng nào, thì người ta lại thường hay nhớ tới những kỷ niệm trong dĩ vãng của mình nhiều bấy nhiêu. Nhất là những người cao niên đã về hưu, không còn bị ràng buộc bởi những công việc làm thường ngày của mình như trước kia, nên có nhiều thì giờ rảnh rỗi ngồi ở nhà một mình, để hồi tưởng lại những kỷ niệm buồn vui khó quên trong cuộc đời mình, rồi để có những lúc tâm sự cho nhau nghe lại những kỷ niệm khó quên này, trong những dịp tiệc tùng họp mặt bạn bè.
Lộc đã chết! Tích ngỡ ngàng khi nghe tin đó. Chàng không tin vào tai mình. Làm sao Lộc có thể chết được? Mình mới gặp anh ấy có tuần trước thôi mà! Trông anh còn khỏe mạnh, tự tin, tràn đầy sức sống. Vậy mà bây giờ anh đã không còn nữa. Cái chết của anh có cái gì đó không thật. Và có lẽ đó là lần đầu tiên Tích đứng trước nhận thức trực tiếp và thâm sâu về tính chất phi lý của một sự kiện quá bình thường trên đất nước chiến tranh này.
Từ giữa tháng Tám, trước ngày Lễ Labour Day, các trung tâm shopping đã rầm rộ quảng cáo “On Sale” cho mùa “Back To School”. Các con tôi đã lớn, qua rồi cái thuở đi sắm backpacks, tập vở, giấy bút, lunch bags, áo quần, nhưng lòng tôi vẫn nao nao bâng khuâng nhớ về những kỷ niệm ấy. Cũng có lúc tôi lại nh ... chính tôi, ngày xưa là cô giáo trẻ khi còn ở Việt Nam, và nhất là những tháng ngày ở trại tỵ nạn Thailand, làm cô giáo “đặc biệt” có những học trò cũng rất “đặc biệt”.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.