Hôm nay,  

Ba Hồn Ma Dưới Bức Tường Đá Đen

03/05/202116:14:00(Xem: 3897)

Ngày 17 tháng Chín này Đài Truyền Hình PBS sẽ cho trình chiếu tập tài liệu, 18 tập,  về cuộc chiến Việt Nam tựa đề là THE VIETNAM WAR của nhà làm phim tài liệu nổi tiếng là Ken BurnsLynn Novick.  Đã có nhiều cuộc thảo luận về bộ phim này với một số người có tiếng tăm trong cộng đồng Viêt Nam ở hải ngoại với nhiều ý kíến khác nhau về bộ phim.  Trong một cuộc phỏng vấn, Ô. Burns có phát biểu là bộ phim này không đưa ra câu trả lời mà nêu lên nhiều câu hỏi về cuộc chiến tranh “nhức nhối” này trong lịch sử của Hoa kỳ.  

Bài viết này được hư cấu để mạo muội nói lên quan một điểm cá nhân về cuộc chiến tương tàn và có mang tính  cách đấu tranh ý thức  hệ giữa hai khối Tự Do và Cộng sản này.  

Trước khi vào câu chuyện xin được nói sơ qua về nữ điêu khắc gia ngươì Mỹ gốc Hoa tên Maya Lin, tác giả của Bức Tường Đá Đen ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn, ghi danh các chiến sĩ Hoa Kỳ chết trong cuôc chiến tranh Việt Nam.

Sinh năm 1959 tại thành phố Athens, tiểu bang Ohio, Maya Lin gây được sự chú ý của công chúng khi cô là một sinh viên hai mươi ba tuổi ở năm cuối Đại Học Yale, cô đã đệ trình một đồ án để xây  Đài Tưởng Niệm Cựu Chiến Binh Mỹ chết ở Việt Nam sẽ được dựng lên  tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn và sau đó được trúng giải trong cuộc thi cấp quốc gia.  Cô được đào tạo như là một nghệ sĩ và một kiến trúc sư.  Là một người Mỹ gốc Hoa xuất thân từ một gia đình có văn hóa cao và nghệ sĩ tính.  Cha của cô là trưởng khoa mỹ nghệ tại Đại Học đường Ohio.  Mẹ của cô là giáo sư văn chương tại cùng đại học.  Lin đưa ra lời nhận xét là:” Là con cái của người di dân, bạn có được cái cảm thức về nguồn gốc của mình từ đâu đến.  Quê hương của mình là ở đâu?   Và cố gắng để tạo cho mình một quê hương [mới].”  Cô lấy nguồn cảm hứng cho các tác phẩm điêu khắc và kiến trúc của mình từ các nguồn văn hóa đa dạng, bao gồm từ lối tạo hình theo lối cây kiểng Nhật bản đến các kiến trúc của dân Da Đỏ Hopewell cho đến các tác phẩm tạo nên từ chất liệu bằng đất của các mỹ thuật gia của các thập niên 1960 và 1970.

Công trình nổi tiếng nhất của Lin là Bức Tường Tưởng Niệm Chiến Sĩ tử trận ở Viet Nam khắc ghi danh tính của những tử sĩ để tự bức tường nói lên ý nghĩa của cuộc chiến.  Bức tường nối kết một thảm trạng xãy ra ở một vùng đất xa lạ với miền đất tại thủ đô xứ Mỹ, nơi bức tường gắn chặt xuống đất.  Đồ án của cô được chọn trong số 1.400 đồ án đệ nạp, trong số đó các đề án của các kiến trúc sư nổi tiếng trên thế giới.  Sự lựa chọn này lập tức làm nổi lên nhiều tranh luận không những vì đây là một đồ án được phát họa không bị gò bó theo qui thức cổ điển mà còn vì tác giả là một phụ nữ và là một người Mỹ gốc Trung Hoa.  Có nhiều người đưa ra lời phê bình chế diễu là “[chỉ là] một tấm mộ bia khổng lồ”.  Bức tường tưởng niệm naỳ được Lin giải thích là “một vết rạn nức trên trái đất”, gồm hai bức tường bằng dá hoa cương, mỗi tấm dài 246 feet, nằm ở góc nghiên 125 độ.  Một bức hướng về phía Đền Kỷ Niệm TT Lincoln.  bức kia hướng về phía Đền Tưởng Niệm TT Washington.  Mỗi bức gồm có 70 tấm bia khắc tên hơn 58 ngàn người lính Mỹ     tử trận.  Tên của họ được liệt ra theo thứ tự thới gian từ 1959 đến 1975.   

Công trình xây dựng này giống như một vết cắt đã thành sẹo trên khung cảnh của thủ đô nước Mỹ, được cắt không nương tay vào Khôn Viên Washington nhưng lại hiện ra một cách đầy uy nghi ở cách nó rạch ra một không gian để trình bày cho công chúng niềm thống thiết và đau thương.  Tập chú vào cá nhân của từng nam và nữ quân nhân đã hy sinh trong trận chiến, đài tưởng niệm còn đáp lại đúng cảm xúc của từng cá nhân du khách viếng thăm.  Không có caí nhìn “đúng , sai”  khi người ta đến với Bức Tường Tử Sĩ vì  nó không muốn hô hào về chính trị hay cho những lý tưởng cuả Mỹ.  Điều nó muốn nói lên duy nhất là là cái giá của chiến tranh là mạng sống của con người.  Bây giờ xin được vào câu chuyện.  

    Nhân vật: Sam: hồn ma Hoa Thịnh Đốn, Bắc: hồn ma Hànội, và Nam: hồn ma         Sàigòn. Cả ba đều là tử sĩ trong cuộc chiến Việt Nam.

      Không gian: dưới Bức Tường Tử Sĩ ở Hoa thạnh đốn.

      Thời gian: nữa đêm khuya về sáng Ngày Kỷ Niệm Chiến Sĩ Trận Vong của Hoa Kỳ.

Sam:  Chào hai anh.  Hôm nay được gặp hia anh ở nơi tượng đài này quả thật là đặc biệt.

Bắc:  Đúng vậy.  Đối với tôi đây là một dịp hiếm có.

  Nam:  Tôi cũng xin đồng ý với hai anh đây là dịp để chúng ta có cơ hội để lắng nghe suy nghĩ của nhau về cuộc chiến mà mình đã hy sinh. 

Sam:  Đối với riêng tôi, tượng đài này đã làm được việc đem lãi sự an ủi lớn lao cho các bạn đồng ngủ của tôi và cho gia đình của họ.   Sau cùng, chúng tôi đã không bị quên lãng. 

Bắc:  Đúng như vậy.  Tuy về phần chúng tôi cũng được “Tổ Quốc Ghi Công” nhưng không có được ý nghĩa lớn lao như việc được tưởng niệm này của các anh.  

   Nam: Vế phần tôi tuy Nghĩa Trang Quân Đội của chúng tôi không được lớn lao như xứ anh nhưng toàn cỏi miền Nam ai ai cũng đều thương tiếc những người chiến sĩ  đã hy sinh cho Quốc Gia.

Sam:  Nói cho cùng thì dù dưới danh hiệu nào thì chúng ta cũng đã hy sinh vì đất nước của mình.  Chúng tôi là công dân của một xứ tự do, chúng tôi có thể chấp nhận hay thậm chí có kẻ làm cả  chuyện từ chối việc chiến đấu nữa!  Riêng tôi, tôi chấp nhận chiến đấu cho  lý tưởng Tự Do và thấy việc hy sinh của mình không là vô nghĩa.  Tôi chỉ buồn là vì chíng quyền không làm được việc gỉai thích cặn kẻ mục tiêu của cuộc chiến với đồng bào tôi, vì vậy đã đem lại sự bạc đải đối với những đồng đội của tôi còn sống sót cũng như đối với những anh em của chúng tôi đã hy sinh trong cuộc chiến, một cuộc chiến không phải là “vô nghĩa” như đã bị thành phần phản chiến miệt thị đặt tên.  

Bắc:  Trong môi trường bị gò rập theo khôn khổ, tôi sống ra và lớn lên trong cuộc “chiến tranh cứu nước”, không có lối thoát và không có đường nào khác để sống còn. Tôi chỉ biết lên đường để “giải phóng miền Nam đang bị áp bức và xâm lăng”.

Nam:  Còn thế hệ của chúng tôi may mắn hơn các anh được sống dưới chế độ Tự Do.  Chúng tôi được bày tỏ thái độ về cuộc chiến.  Cũng chính vì vậy mà một số người đã không thấy được cái tai hại khi đưa ra mặt tiêu cực của cuộc chiến làm nản lòng dân chúng và làm thiệt hại đến tinh thần chiến đấu của anh em chúng tôi. 

Sam:  Anh Nam à, đó cũng là sự nguy hại đưa đến sự chia rẽ ở lớp thanh niên thế hệ tôi làm rạn nứt nội bộ, chia rẽ trong dân chúng và làm suy yếu tiềm năng chiến đấu rồi cuối cùng đưa đến sự thất bại chua cay.

Bắc:  Này anh Sam, tôi xin có nhận xét là nếu các ngưòi lảnh đạo thời đó của anh có sự đánh giá chính xác về mục đích chiến đấu của mình và về tiềm năng và thực lực của phe chúng tôi thì các anh đã thắng từ lâu, tránh được sự chết chóc của chúng ta.  

Sam:  Anh nói có lý.  Baì học này cho tôi thấy rằng dù là một nước lớn, mạnh đến đâu nhưng không có một nhận thức rõ ràng về đường lối chiến đấu, không chuẩn bị tâm lý dân ở xứ mình và thu phục nhân tâm của dân ở xứ người, không nhất quán  về đường lối chiến đấu từ đầu thì không thể nào đánh thắng được kẻ địch dù đó là một nước kém hơn minh về mặt tài lực đến bội phần.  

   Nam:  Anh Sam, tôi đồng ý với thái độ quân tử mã thượng của các anh trong cuộc chiến Nam Bắc trong lịc sữ nưóc Mỹ khi xưa.  Không có sự nghi kỵ và đày ải người anh em của mình khi họ đã bị thất trận.  Từ đó đã đem lại được sự đoàn kết để mọi người được sống trong hoà hợp, thanh bình và ấm no.  Tôi cảm thấy đau buồn và thất vọng vì caí nhìn đầy thù hằnvà thiếu tinh thần mã thượng , tình đồng bào của kẻ đã “thắng” đối với người cùng giòng giống của mình!

Bắc:  Giờ đây ở cỏi thế giới vô hình này không còn ai là quan, ai là lính, không còn phe naỳ hay chủ nghĩa nọ, tôi nhận thấy nhận xét trên của anh Nam thật là chí tình, chí lý.

 Nam:  Chắc các anh cũng có nghe là thay vì tượng đài được dựng lên để tưởng niệm các chiến sĩ không phân biệt phe , miền thì tượng và mộ bia của tử sĩ miền Nam chúng tôi đã bị phá huỷ trong khi đó chiêu bài “Đại đoàn kết dân tộc” lại được rầm rộ hô hào.

Sam (nhìn Bắc): Vậy sao!?  Điều này làm tôi thật kinh ngạc và khó hiểu! (trong khi đó thì Bắc đưa mắt sang hưóng khác để tránh cái nhìn đầy thắc mắc của Sam.) 

Sam:  Thêm một thắc mắc của tôi nữa là người ta chiến đấu để thay cái cũ, cái đở, cái xấu bằng cái mới tốt đẹp hơn nhưng tôi thấy hiện trạng ở xứ các anh thì hình như lại trái hẵn,  Các anh có nhận thấy vậy không?

Bắc:  Theo tôi thì nước tôi bây giờ đã có nhiêu tiến bộ.  Các đô thị nổi lên như nấm và rất khang trang, tân kỳ.  Đời sống của dân thành thị văn minh không khác gì với các nước tân tiến trong vùng.  Sự đi lại và báo chí cũng được tự do hơn…

   Nam:  Có lẽ anh nói đúng đó. Nhà cữa ở các đô thị thì đầy vẻ lộng lẩy khác hẵn với đời sống vẫn còn cơ cực, lạc hậu ở nơi nông thôn hẻo lánh xa xôi.  Giai cấp tư bản mới của chế độ lên xe xuống ngựa, hưởng thụ tất cả những tiện nghi của thế kỷ được tập trung nơi các đô thị.  Người Việt ở xứ ngoài được thoải mái về thăm, ăn chơi, đưọc khuyến khích đầu tư miễn là đừng đá động, chỉ trích gì đến chính quyền!  Những điều này đều rất đúng!

Sam:  Tôi thắc mắc không biết tại sao đã mấy chục năm từ khi có sư thay đổi thể chế mà nước các anh vẫn còn là một trong những nước nghèo và lạc hậu nhất thế giới và tình trạng vi phạm nhân quyền, không tự do vẫn còn bị xem là đáng quan ngại vậy?  Nếu như nước nghèo thì mọi người đều nghèo, tại sao tôi lại thấy trong khi đa số phải vật lộn để kiếm ăn hằng ngày, trẻ con, người già phải đi bán vé số trong khi có một số người “không phải là dân” lại đi xe hơi mới, nhà lầu có hai ba cái, đất đai trong tay cả chục chục mẫu, tiền trong tay cả chục triệu đô la là sao vậy?

Bắc : im lặng không trả lời.

   Nam:  Trước kia ở chế độ tôi cũng có tham nhũng và hối lộ và có lẽ đây là một trong những nguyên nhân làm chúng tôi bị sụp đổ.  Chế độ mới với mục đích thay đổi cái dở cái xấu cũ nhưng tại sao tôi thấy hiện nay sự tham nhũng và hối lộ còn gấp trăm lần khi xưa.  Đó là một trong những điều mà tôi không thể nào hiểu được.  Anh Bắc có ý kiến gì không?

Bắc: im lặng không trả lời.

    Nam:  Hiện nay nhiều phụ nữ Việt vì nghèo túng phải chịu lấy chồng xứ ngoài và bị hành hạ, bóc lột như là kẻ nô lệ, chịu trăm bề nhục nhả.  Có người bị bán rao trên internet như đồ vật hay bị trưng bày trong tủ kiến như một món hàng thật là nhục cho cả nuớc mà không thấy kẻ có trách nhiệm lên tiếng bênh vực gì cả!  Anh Bắc thấy thế nào?

Bắc:  (cuối đầu buồn bả) Thật ra tôi cũng rất lấy làm nhục nhả , xấu hổ và đau buồn cho thân phận của phụ nữ xứ mình đó anh à.

     Nam:  Có điều tôi thực sự vô cùnh kinh hoàng khi các tượng bia tưởng niệm người chết vì vượt biển được dựng lên ở các đảo tỵ nạn bị yêu cầu phá huỷ vì nó là chứng tích cho cuộc ra đi tìm Tự Do vĩ đại nhất của dân Việt .  Cho dù những bia đó có bị phá hủy thì người đời vẫn xác nhận  là “ Trăm năm bia đá có mòn nhưng ngàn năm  bia miệng vẫn còn trơ trơ” phải không anh Bắc?

    Bắc im lìm không trả lời.

   Nam (quay sang Sam):  Anh Sam, trong cuôc chiến khi xưa, một bên là do sự lèo lái của Liên Xô, Tàu, một bên do sự cầm cương của các người lảnh đạo của xứanh. Cuối cùng vì quyền lợi của xứ anh, chúng tôi là đồng minh lại bị bỏ rơi sau khi hai bên đã âm thầm lém lút dàn xếp với nhau để người bạn của mình phải chết một cách tức tưởi làm phí đi không biết bao nhiêu là mạng thương dân và lính chiến như chúng ta là sao vậy anh? 

   Sam cúi đầu buồn bả lặng thinh.

    Nam:  Nói cho cùng, chỉ có thân phận bọn tôi là chịu nhiều thiệt thòi và cay đắng nhất.  Thua trong một trận chiến gần như là không có sự được hổ trợ tương xứng do sự trở mặt của bạn và sự thiếu thống nhất và sáng suốt trong việc chỉ huy của lảnh đạo phe mình, chúng tôi đã bị thành kẻ chiến bại.  Mồ mã không được yên, luôn bị kẻ thắng xem như kẻ địch thù.  Không có được một tượng bia tưởng niệm nơi quê hương của mình phải sống dật dờ nơi xứ người.  Còn có nổi buồn nào lớn hơn không mấy anh? Nhìn lại thì ra ba chúng ta đều có nổi buồn riêng của  phần mình.  

  Sam: Riêng tôi dù đã hy sinh cho nước mình nhưng tôi vẫn cản thấy buồn vì đã bị phủ nhận sự hy sinh chiến đấu ccho nước mình mãi đến ngày Bức Tường này được dựng lên để tỏ lòng tri ơn và tưởng niệm các chiến sĩ xấu số của thế hệ tôi.

Bắc:  Còn tôi, trước sự thật phủ phàng đi ngược lại với những gì được hô hào khi còn chiến đấu, tôi cảm thấy buồn cho thế hệ chúng tôi và cho sự bị áp chế và nổi cơ cực của đồng bào vẫn còn dai dẳng kéo dài.  

Nam:  Nổi buồn của tôi có khác với hai anh.  Tôi buồn vì sự hy sinh của chúng tôi    đã bị phản bội bởi sư thất tín vá ich kỷ của bạn bè và sự thù hằn nhỏ nhen hiểm độc của chính kẻ cùng màu da, tiếng nói với mình.

Trời bắt đầu rạng sáng.  Ba hồn ma gục đầu , nước mắt chảy dài trên má rồi từ từ tan đi theo làn sương khói.

   Buổi sáng hôm đó người viếng Bức Tường đầu tiên là bà mẹ của Sam.  Khi bà đặt bó hoa dưới tên con mình, bổng bà chợt thấy sương phủ trên mặt đá hoa cương lạnh đen bóng tụ thành nước chảy ràn rụa như nước mắt xuống ngang qua tên con mình được khắc: Sam America.  Dòng nước rớt xuống đọng ở ba chỗ.  Bà còn nhận thấy một điều rất lạ là chỗ nằm ở hướng Nam thì nước lại đọng nhiều hơn ở hai chỗ kia. 

                                                                                      

                                                                                              - viết lại tháng Ba , 2010


Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.