Hôm nay,  

Miếng Ăn

24/07/202111:50:00(Xem: 5841)


1

Sáu giờ sáng. Vừa mới thức dậy, My xem liền tin nhắn của gia đình trong cell phone. Mấy chị em vẫn thường dùng cách “text” để trò chuyện với nhau. Bên này là sáng sớm, bên Việt Nam mọi người đã ăn xong cơm tối.

Em gái út nhắn: 

“Hôm nay chùa cho mấy ổ bánh mì, để trước nhà, mình ra lấy.”

My trả lời:

“Vậy sao? Tốt quá! Bữa trước em nói thèm bánh mì nhưng không đi mua được. Nay thì ước gì được nấy rồi nhé!”

“Mấy bữa chùa cho gạo, em không lấy, để nhường cho người nghèo hơn. Chùa bảo cứ lấy đi, chùa cho đồng đều hết. Hôm nay gặp bánh mì nên em lấy. Chùa còn bỏ tiền ra để đi thu mua rau ở các nhà vườn, về phát cho người dân quanh đây. Nhà mình hay đi cúng chùa, nên chùa cho lại như phát lộc. Mình lại đóng góp tiếp cho chùa.”

“Tình hình bên đó sao rồi, em?”

“Chị ơi, hôm nay khu vực gần nhà mình bị phong tỏa. Sắp tới chắc lại khó khăn thêm. Lo nhất là mua không được hàng, nhất là thức ăn.”

Hai chị em kể hết chuyện nọ đến chuyện kia cho bớt căng thẳng. Kể cho đến khi em gái chào để đi ngủ. 

Đến đêm ở bên này, My lại trằn trọc khi nghĩ đến miếng ăn. My vẫn luôn nhớ câu Má hay nói:

“Miếng ăn là miếng tồi tàn, 

Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu.”

Hồi nhỏ nghe câu ca dao này cảm thấy tức cười, nhưng nghe Má giải thích My thấy thấm thía vô cùng. Chắc cũng không mấy ai mất ăn mà tức giận dữ dội lắm đâu! Nhưng nói miếng ăn quý giá thì chắc đúng. Đặc biệt là trong những ngày thiếu thốn, xếp hàng cả ngày để mua gạo. Mà nếu không mua được thì người ta buồn lắm. Nhưng rồi có được trăm phần trăm gạo đâu! Còn có thứ độn nữa, không khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô, thì bo bo, và cả bột mì. Miếng ăn lúc đó không còn là miếng tồi tàn, mà quý lắm. Cái thời phải chuyển đổi từ mua bán tự do sang cách mua hàng phân phối, cũng khó khăn lắm để thích nghi. Đôi khi con người còn có tâm trạng buồn chán, tự hỏi tại sao mình lại phải chạy theo miếng ăn hàng ngày như vậy. Ba của My, ông công chức quanh năm quen công việc văn phòng, từ chối mãi không chịu mang những thực phẩm được “phân phối” về nhà. Ông nói ông không quen! Cuối cùng ông cũng chịu thua, vì không nỡ để gia đình thiếu ăn.

Đó là câu chuyện của thời cách nay mấy mươi năm. Sau này, khi cuộc sống tương đối thong thả hơn, đã xuất hiện những cảnh ở thành thị nhiều người ăn uống thừa mứa, thậm chí phung phí thức ăn. Nhưng người dân nghèo, người ở miền quê, người ở miền núi thì vẫn không đủ ăn, vẫn phải vất vả kiếm sống. Cái ăn hàng ngày luôn là một nỗi nhức đầu…

Rồi trong giấc ngủ chập chờn, My mơ thấy mình đang trở về những ngày tháng sau cuộc “đổi đời” cách nay mấy mươi năm. My thấy bà ngoại mỗi ngày ngồi lượm gạo, nhặt những hột sạn gom lại một đống, nhìn mà rùng mình. Chưa hết, những con sâu gạo cũng đông đảo không kém! Bà ngoại nói lượm gạo riết thành “cái nghề” cho bà, một cái nghề không lương, cũng vui! My mơ thấy Má đem bo bo đi xay cho vỡ ra, nấu dễ mềm, và đỡ làm đau bao tử. Bo bo có cái tên mỹ miều là “cao lương” nhưng ai cũng sợ, không muốn ăn. My mơ thấy mấy chị em lựa những lát khoai lang, khoai mì bị mốc đem bỏ. Mà đa số là đã mốc! My mơ thấy hôm nào mua được bột mì để ăn độn là coi như hôm đó trúng số. Mấy chị em xúm lại tập làm bánh mì, làm mì sợi, làm nui. Những ngày đến trường, đem một “lon gô” cơm hay nui, mì, bo bo, ăn với muối ớt, là xong, cho cái bụng được vững để vào giảng đường, vào phòng thực tập.

Đó là cảnh “đổi đời” của người dân. Còn cảnh “đổi đời” của những người bị giam trong những nơi gọi là “trại cải tạo” nữa, giấy bút nào tả cho hết! Lúc cái đói trở nên khủng khiếp, người tù tìm bất cứ thứ gì để ăn cho no bụng, bất kể đó là rắn rết, chuột bọ hay côn trùng. Chỉ với một ước muốn: sống còn để trở về với người thân!


2

Sài Gòn đang trong một mùa hè nóng bỏng. Không phải chỉ vì thời tiết, mà như đang ở trong một cuộc chiến. Sài Gòn giới nghiêm! Nói theo từ ngữ thời đại là phong tỏa. Sẽ có dây giăng, rào chắn để không ai ra vào khu vực cách ly. Người có xét nghiệm dương tính với Covid sẽ phải vào khu cách ly. Dịch bệnh mang lại sự sợ hãi đã đành, cái ăn cũng là một nỗi âu lo. Chợ búa đóng cửa, xe cộ nằm ụ nên không chuyên chở được hàng. Người dân dù có tiền cũng không mua được thức ăn. 

Hôm nay em gái út nhắn tin, kể:

“Nhà kia có một vạt rau muống thật tốt. Họ để tấm bảng chữ in rõ ràng: Điểm tặng rau miễn phí. Ai cần đến lấy. Thêm một tấm bảng to, ghi chữ viết tay: Rau muống giải cứu. Ai mua thì bán, 5 ngàn một bó. Ai xin thì cho. Tự bỏ bọc, xin đừng bới móc.”

“Nghe dễ thương quá, em à!”

“Dạ, bây giờ nhiều nơi làm như vậy đó chị! Quyên được nhiều tiền như nhà chùa, nhà thờ, thì mua gạo, mì gói, hàng hóa thiết yếu đem tặng bà con. Người trồng được rau quả thì nửa bán nửa cho, như nhà trồng rau muống kia vậy. Không có xe chuyên chở, chẳng lẽ đem đổ bỏ, mang tội.”

“Hơn thế nữa, em à! Đó là sự tử tế, là lòng thương người, là sự đùm bọc.”

“Đúng vậy. Chị biết không, nhiều người mang thực phẩm đến tặng cho những người ở trong khu cách ly đang rất thiếu thốn, rất tội.”

“Em gái có nhớ năm ngoái nước Mỹ thê thảm thế nào? Ai nghe nói cũng xót xa cho nước Mỹ. Số người nhiễm Covid và số người chết hàng ngày thật không thể tưởng tượng được. Nay nước Mỹ tương đối yên ổn rồi vì đã có vaccine. Nhưng cả thế giới sẽ không thể yên ổn nếu vẫn còn dịch bệnh.” 

“Nay đến lượt Việt Nam!”

Có một khoảng lặng, hai chị em không viết gì. Rồi cùng một lượt, hai câu giống nhau:

“Má có buồn vì con cháu không thể tụ họp ở nhà Má không?”

“Má buồn, hơi trách móc, nhưng đành chịu, phải giải thích cho Má hiểu thôi!”

“Chị không biết đến bao giờ mới có thể về được để thăm Má!”

Em gửi một cái hình “emoji” mặt buồn.


3

Hôm nay em hỏi một câu rất hay:

“Ở bên Mỹ, lúc dịch bệnh, có khi nào phải nhịn ăn không chị?”

“Ồ, có chứ em! Người ta hạn chế đi chợ, hạn chế đi ăn tiệm, nên ăn uống trong nhà cũng phải dè xẻn. Có khi mình nhịn bớt để… mọi người ăn nhiều một chút.”

“Vậy là giống Má ngày xưa.”

“Đại khái là vậy.”

“Mấy bà mẹ thường vậy ha!”

“Thuở di tản, em út còn bé quá chắc không nhớ, bữa nào Má mình cũng nấu một nồi cơm cho mấy chục người ăn, thêm một nồi canh to, một nồi cá to. Nhưng ngày nào bụng Má cũng đói meo.” 

“Hi hi, mấy bà mẹ là vậy.”

“Em út biết không, xưa nay ở xứ mình, có những gia đình nghèo, trẻ con có thói quen ăn cơm không, có miếng thịt thì chừa lại. Ăn mấy chén cơm cho no bụng, miếng thịt vẫn còn nguyên, để dành đến cuối cùng…”

“Người mình đa số nghèo khổ ha chị!”

“Ừ. Bởi vậy, lúc học trung học, khi chị kể câu chuyện cha mẹ con cái trong một gia đình nhường nhau một con tôm do người mẹ đi chợ lượm được về kho, chị được cô giáo Việt Văn khen, các bạn cũng tấm tắc khen cảm động. Nếu bây giờ kể câu chuyện này thì sao nhỉ?”

“Ngày xưa ăn tôm là sang hả chị?”

“Tùy nhà thôi! Nghèo thì cái gì cũng quý. Mà ngộ lắm, ăn thịt gà là sang, ăn cá là nghèo. Qua bên Mỹ thì ngược lại, thịt gà rẻ, coi như bình thường. Còn ăn cá là “healthy” tức là lành mạnh. Ăn cá là sang.”

“Ngộ quá ha chị!”

“À, còn nữa, có một dạo người Việt mình hay nói đến thức ăn “xuất khẩu” để chỉ những mặt hàng phẩm chất cao. Đương nhiên, giá cả cũng cao. Do đó, người dân nghèo khó lòng mua được hàng “xuất khẩu” để dùng. Thí dụ, tôm xuất khẩu thì người nghèo chẳng bao giờ thấy. Thời đó, ra chợ, thấy có bán đầu tôm xuất khẩu. Có nghĩa là… cái mình con tôm thì đã được xuất ngoại rồi!”

“Hi hi, nói chuyện thức ăn cho vui, quên dịch bệnh ha chị!”

“Ừ.”

“Ở bên mình bây giờ người ta cũng dùng cách đặt hàng online, tiện lắm chị à! Nhưng chỉ có một số nào đó thôi, còn đa số dân mình mua hàng theo cách truyền thống, cầm tiền mặt ra chợ, mua bán, trả giá, khen chê… Bây giờ cách này gặp khó khăn, vì ngăn sông cấm chợ. Có một nghề mới, gồm những người đi giao hàng, được gọi là “shipper” nghe hay ha! Họ thường đi bằng xe gắn máy, giao hàng tận nhà. Nhưng lúc này họ cũng gặp không ít khó khăn.”

“Thời Covid bên Mỹ cũng vậy. Người giao hàng an toàn hơn, nhưng cũng tránh tối đa việc tiếp xúc. Họ đặt các túi hàng trước cửa nhà mình, bấm chuông rồi đi. Mình chờ mười mấy phút rồi ra lấy. Thức ăn đem vào đều được rửa sạch sẽ trước khi cất hoặc dùng. Lúc chưa có vaccine, chỉ trông mong vào chiếc khẩu trang, rửa tay, giữ khoảng cách và tránh tụ họp. Sau này, chích vaccine rồi, nhiều người cũng vẫn giữ những thói quen đó. Thật ra, điều gì tốt thì mình cứ làm thôi!”


Vẫn là trong giấc mơ chập chờn, My thấy những người bệnh nằm trong bệnh viện, với máy trợ thở. My nghe tiếng xe cứu thương hụ còi đưa người vào khu cách ly. My thấy mình cầu khấn các đấng thiêng liêng cứu dân mình. Rồi My tự nhủ lòng, thôi thì nghĩ tới miếng ăn… chắc đỡ sợ hơn!

Và thật thế, miếng ăn là miếng tồi tàn, như Má nói, nhưng quý giá lắm. Nghĩ đến miếng ăn, tự nhiên bớt sợ. Chẳng trách nhiều người tìm đến sự ăn uống như một cách để giảm buồn phiền. Nhiều người xem ăn uống là một nghệ thuật. Thời đại dịch, ngay cả ở nước Mỹ, cái ăn cũng trở nên thiết yếu, quan trọng vô cùng. Nhưng trên tất cả, miếng ăn là phương tiện truyền tải lòng nhân, tình thương yêu, sự đùm bọc. Chị em ở Mỹ thời đại dịch không tụ họp với nhau được, vẫn không quên nấu hoặc mua những món ăn, đem đến để trước cửa nhà nhau. Ở Việt Nam bây giờ cũng vậy. Còn nữa, có những người ở tỉnh khác, tìm mọi cách gửi thực phẩm về tiếp tế cho Sài Gòn. Người ở các vùng quê cũng nói thương Sài Gòn lắm!

Một thuở, Sài Gòn và những nơi khác có những thùng bánh mì miễn phí, những thùng trà đá miễn phí, dành cho người nghèo, người lao động, người lỡ đường… Một thuở, Sài Gòn và những nơi khác còn có những quán cơm mang tên Nụ Cười, quán cơm Tình Thương, mang hình bóng của những Quán Cơm Xã Hội thời Việt Nam Cộng Hòa. Người ta vẫn sống với nhau bằng tấm lòng!

My thiếp ngủ trong một niềm ao ước…


Tháng 7/2021

Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mùa lễ Phục Sinh, đám con nít gặp nhau ở nhà ông bà Ngoại, vui mừng tở mở. Đêm nào chúng cũng thức khuya lắc, khuya lơ. Sáng dậy trưa trật, trưa trờ. Mở mắt, mở miệng, như bầy tằm ăn rỗi...
Tôi vừa nhận được thư con gái báo cháu trai ngoại của tôi sẽ dự lễ tốt nghiệp đại học vào tháng sáu, mời mẹ và bố dượng về tiểu bang Cali dự lễ, con sẽ mua vé máy bay và bố mẹ sẽ về nhà con ở hai tuần chơi với cháu trước khi cháu tiếp tục đi học xa. Cầm trong tay tấm thiệp mời màu xanh lá cây nhạt, mắt tôi nhòa lệ nhìn hình cháu trai hai mươi bốn tuổi trong y phục sinh viên tốt nghiệp...
Bà luôn ở cùng chúng ta, vì trong đời sống này có ai mà không một lần đi chụp quang tuyến X? Đi chữa một cái răng đau, nhổ răng khôn. Đi chụp phổi, đi soi bao tử fribroscopie, hay đơn giản nhất là té ngã, cũng phải đi cà nhắc tới imagerie médicale rọi tia X-quang xem xương bị tổn thương ra làm sao. Đơn giản mà là vậy, bác sĩ đâu có chữa bệnh lơ mơ, phải thấy rõ, thì đó là chúng ta sống và nhiều lúc phải nương tựa vào những tìm kiếm và phát minh của bà, không có bài bản chụp quang tuyến cuộc đời gắn liền với bệnh e gặp nhiều khó khăn...
Là một tiến trình tự nhiên của con người và muôn loài, bệnh vốn là một giai đoạn của vòng luân hồi sanh tử, là một phần của quy luật thành-trụ-hoại-không. Phàm đã sanh ra làm người thì ai ai cũng có bệnh, không nặng thì nhẹ, không nhiều thì ít, không lúc này thì lúc khác; không phải đến lúc lão mới bệnh...
Sau khi thăm thú và chiêm ngưỡng những tượng đài kỷ niệm trong quần thể kiến trúc lịch sử, những bảo tàng viện, những vườn cây (Botanic garden) và chim muông ở trung tâm Thủ đô, chúng tôi lên xe tiến thẳng về Mount Vernon, trang trại của Tổng thống George Washington, nơi ông đã sống ở đây trong lúc sinh thời. Trang trại được toạ lạc trên một ngọn đồi thơ mộng bên dòng sông Potomac. ..
Nói về món ăn thuần túy ở Việt Nam, mỗi miền nổi tiếng với đặc sản riêng, khi gọi tên món ăn đó gợi lên hình ảnh của nơi nào rồi. Với món phở, theo thời gian đã đi vào văn chương qua các ngòi bút nhà văn, nhà thơ từ thập niên đầu của thế kỷ XX trong các tác phẩm...
Sau ba tuần ở trại nhỏ Tha Luông miền Nam nước Thái, nhóm tàu chúng tôi được chính thức nhập trại Panatnikhom vào giữa tháng 1 năm 1990. Cuộc sống dần trở nên quen thuộc nơi trại tỵ nạn, mỗi ngày trôi qua như mọi ngày...
Mặt đất khô cứng dưới lưng cô. Trong bóng tối, cô không nhìn rõ khuôn mặt của gã. Nhưng cái mùi của gã thì nồng nặc bao trùm lấy cô, một cái mùi tổng hợp của mồ hôi, thuốc lá, gia vị món ăn… khiến cô muốn lộn mửa. Và thân hình to béo của gã đè nặng lên người cô...
Hai người bước vào Quán Nửa Khuya. Cô gái đi trước, mặt trái xoan, tóc dài, người mảnh khảnh áo jacket màu nâu nhạt. Chàng trai theo sau, mặt vuông, tóc bồng bềnh, cao hơn cô gái một cái đầu, vai rộng, sport coat màu sậm...
Khoảng cuối năm Ất Mão, không biết bệnh ghẻ phát xuất từ đâu, lan tràn nhiều nơi ở miền Nam Việt Nam và đặc biệt phát triển mạnh trong các trại tù. Ghẻ lan đi như một trận dịch. Người ta nói ghẻ theo chân mấy anh bộ đội từ rừng sâu về đồng bằng nên cũng gọi là ghẻ bộ đội...
“Phải như chị có được đôi mắt lá răm giống em, chắc chị hạnh phúc lắm.” Người đàn bà nói với Trâm câu ấy bao nhiêu lần nàng không còn nhớ nữa. Những buổi chiều ngồi nhìn nhau trên hai chiếc ghế mây mua được từ một buổi chợ phiên thị trấn dưới chân núi mùa hạ trước. Hết nhìn con đường quanh co dẫn vào khoảng xanh thẫm của bệt mầu đan bằng cây lá, lại nhìn sâu vào mắt nhau và bao giờ người đàn bà cũng ngậm ngùi. Phải như chị có đôi mắt giống em, chắc chị hạnh phúc lắm. Hạnh phúc là gì hở chị. Một lần Trâm đã hỏi lại người đàn bà như thế. Và chị đã chỉ nhìn sâu vào mắt Trâm, lặng lẽ mỉm cười. Hạnh phúc ảo tưởng. Đêm qua em nằm mơ, cứ thấy như trong cổ tích chị Tuyết ơi. Em thấy em là công chúa ngủ trong rừng.
Khi bố tôi qua đời năm 2000, thọ 80 tuổi, tôi thừa kế gia sản của ông, một xưởng mộc và một cửa hàng bán đồ gỗ gia dụng, tọa lạc tại Nam California. Bố tôi là một thần tượng không ai thay thế được trong đời tôi. Bố để lại một di chúc viết tay riêng cho tôi, dặn dò con phải đọc cuốn gia phả quí giá, giữ gìn, in lại thành vài bản và truyền lại cho các con, cháu...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.