Hôm nay,  

Chạy Dịch

14/08/202111:29:00(Xem: 4183)

 


 Anh Hòa lầu bầu trong miệng:

- Hổng biết lò bát quái thế nào chứ căn phòng này có khác gì?

 Cái nóng hầm hập như hấp mấy sinh mạng bên trong, mồ hôi lúc nào cũng rin rít tứa ra, nhiều lúc tưởng chừng cạn cả nước trong cơ thể. Cái nóng dường như cộng dồn từ sự lưu cửu lâu ngày, dù cái máy quạt chạy hết công suất cũng chẳng thay đổi nổi khí nóng trong nhà. Ở thành phố này dường như quanh năm là mùa hè, chỉ có mỗi mùa hè thôi!

Cái khái niệm xuân, thu, đông nó rất mơ hồ trừu tượng, có mấy ai cảm nhận được không khí mát mẻ của nó bao giờ. Đâu chỉ anh Hòa, toàn bộ cư dân ở đây đều vậy, chỉ trừ một số nhà giàu đi du hí các xứ ôn đới thì mới biết cái không khí xuân, thu, đông. Có đôi khi thấy cái cảnh đẹp và mát mẻ của những mùa đó ở trên ti vi hay trên phim ảnh, làm cho anh Hòa cứ ngỡ đó như cảnh tiên, anh ao ước giá được một lần đắm mình trong cái không khí mát mẻ an lành ấy. Anh từng mơ mộng giá mà thành phố này bất chợt một ngày nào đó xuất hiện cảnh vàng thu lá đổ hay tuyết trắng trời đông dù chỉ là một phút thoáng qua. 

 Anh Hòa cởi trần mặc độc xà lỏn  ngồi sát mép cửa ra vào, mắt đầy lo nghĩ mông lung. Lệnh phong thành đã hơn tháng nay, trong nhà cạn kiệt thức ăn, nước uống và tiền bạc; nếu tình trạng này kéo dài chắc chết! Cái đói đã hiện diện chứ không còn mơ hồ gì nữa. Mà đâu chỉ gia đình ảnh, cả cái xóm trọ này cũng thế, toàn dân lao động các tỉnh lên thành kiếm sống, giờ sống dở chết dở. Anh Hòa mất việc mấy tháng rồi, vợ anh mua gánh bán bưng nhặt nhạnh chắp vá từ gánh hàng rong, giờ phong thành đành bó gối ngồi nhà. Thằng Tưởng học lớp bảy, thằng đắc mới đi mẫu giáo cũng ở nhà quanh quẩn trong bốn bức tường. Mấy nay thỉnh thoảng cũng được gạo và rau củ từ mấy nhóm từ thiện cá nhân gởi cho, nếu không thì còn căng thẳng hơn, thỉnh thoảng anh Bảy Bá bên ngoài khu vực phong tỏa cũng tiếp tế cho một ít lương thực. Không có anh và những nhóm từ thiện ấy thì đói là cái chắc, cả xóm cùng đói!

Nhìn những đứa trẻ đứng lố nhố sau hàng rào kẽm gai phong tỏa ngó ra đường, khách cứ ngỡ như trại tập trung thời chiến. Những con người khốn khổ dù chẳng dính dịch hay bệnh nhưng vẫn bị nhốt như gà vịt, thậm chí nhốt còn căng hơn những con vật nguy hiểm truyền nhiễm. Đầu hẻm chăng dây, rào kẽm, những khuôn mặt lạnh tanh lầm lì cứ chờ chực ai vượt qua là ra tay liền, không cần biết lý do gì cả. 

 Cái xóm trọ này ngất ngư trong cơn nắng hạ bao  nhiêu năm nay, cái nắng cái nóng có khó khổ mấy cũng còn chịu được. Ai cũng bám trụ để mưu sinh, lo cho con cái và gia đình, nhưng cái nóng hầm hè chống dịch thì tàn nhẫn hơn, nó làm cho người ta cạn kiệt cả vật chất lẫn tinh thần. Ngồi nhà cả tháng, ăn uống dù có tém gọn đến độ không thể nào gọn hơn nữa nhưng vẫn không biết mai này lấy gì ăn, ấy là chưa nói tiền nhà, tiền điện, nước, học hành và trăm thứ hằm bà lằng khác. Anh Hòa rầu rĩ:

- Phong tỏa dài hạn thế này chắc mình phải cuốn về quê thôi! Dưới quê tuy nghèo khổ nhưng giờ ở đây không còn gì để duy trì nữa! Hết đường sống rồi

 Chị Yên vớt vát:

- Nghe nói họ chuẩn bị phát tiền hỗ trợ cho người nghèo, may ra đắp đổi qua ngày.

- Có mà lên ti vi nhận em ơi!

- Không, em nghe tin tức mấy hôm nay mà!

- Ừ thì ti vi nói, tin được có mà bán lúa giống ăn, dẫu cho có thật thì cũng không bao nhiêu, sao đắp đổi nổi? Mấy nay nhờ những nhóm từ thiện của dân chứ không thì đói rã họng.

- Mình về quê cũng được nhưng việc học hai đứa con sao đây?

- Tới đâu hay tới đó chứ biết sao, giờ lo sống còn trước đã!

 Hai vợ chồng còn đang tính tới tính lui thì tiếng chuông điện thoại cầm tay reo vang. Anh Hòa bắt máy thì nghe tiếng anh Bảy Bá:

- A lô, Hòa đó hả? Anh Bảy đây! Mai bọn anh về quê, anh không giúp gì thêm được nữa, em cũng tính đường đi!

 Hòa bần thần:

- Cảm ơn anh đã giúp bấy nay, giờ anh về quê chúc anh bình an đi đến nơi về đến chốn. Tụi em cũng tính dọn về quê nhưng ngặt cái xóm em bị phong tỏa gắt, nội bất xuất ngoại bất nhập nên không thể đi được.

- Chỗ anh cả xóm ùn ùn kéo về quê, giờ có bám lại cũng không còn tiền để sống, không nghề để làm. Dịch như vầy biết bao giờ mới hết? Em có gì cứ nhắn tin anh, anh giúp được gì trong khả năng thì anh giúp.

- Dạ, cảm ơn anh.

 Bốn giờ sáng, trời còn tối mịt, những ngọn đèn vàng vọt trong hẻm tỏa ra ánh sáng yếu ớt trầm lắng. Vợ chồng Bảy Bá nai nịt gói ghém toàn bộ hành lý lên chiếc xe máy. Anh đèo chị, thằng Tí ngồi ở trước, thằng Tô ngồi giữa hai vợ chồng, trông thật tài tình làm sao, cứ như làm xiếc. Chiếc xe máy cồng kềnh nổ khìn khìn hòa với tiếng máy của những chiếc xe khác, cả đoàn người lần lượt rời khỏi con hẻm, dòng xe nối đuôi chạy ra đường lớn và hướng về phía cửa ngõ thành phố. Nếu sài Gòn ngày trước như một hấp lực, anh Bảy Bá đưa vợ và con lên thành mưu sinh, giờ rời bỏ Sài Gòn chạy trốn trong sự ngậm ngùi, ở lại lấy gì mà sống? Anh làm phụ hồ, chị bán hàng rong, ky cóp cũng đắp đổi được, nhưng từ khi dịch bùng lên, anh mất việc, hai tháng sau thì phong thành, chị buộc phải ngồi nhà. Giờ thì phải bỏ Sài Gòn mà đi, có mấy ai muốn rời đi đâu? Nhưng không đi thì lấy gì ăn? 

 Dòng xe máy khìn khìn nối đuôi nhau, xe nào cũng chất lỉnh kỉnh đồ đạc, treo máng hai bên, ràng buộc trước sau. Mọi người cố nhặt nhạnh đem về những món tài sản ít ỏi của mình. Đoàn xe chạy qua những con đường vắng tanh không một bóng người, không ít người ngậm ngùi thầm nói lời tiễn biệt Sài Gòn. Thỉnh thoảng vài chiếc xe nhà binh rọi đèn pha chói mắt, dù không thấy người trong xe nhưng ai cũng rờn rợn biết có những cặp mắt đang tăm tia họ. Những nhà dân hai bên đường cửa đóng then cài với nhiều lớp khóa. Bên này đường treo cao khẩu hiệu:” Mỗi nhà là một pháo đài chống dịch, mỗi người là một chiến sĩ chống dịch”, bên kia đường đối lại bằng một khẩu hiệu khác: ”Chống dịch như chống giặc, dùng tinh thần đánh đế quốc để chống dịch”… Đòan xe chạy ngang một chốt dân phòng, thấy năm bảy người lố nhố với dùi cui, roi điện, kẽm gai và trên nóc cũng chăng khẩu hiệu đỏ lòm, ngay cạnh đó là trụ sở ủy ban kín cổng cao tường, trên tường cũng trương khẩu hiệu, nơi nào cũng thấy khẩu hiệu. Anh Bảy nói giọng bực bội:

- Con bà nó! Chống dịch bằng tinh thần đánh Mỹ, vậy mà tiền Mỹ thì tươm tướp, hàng Mỹ thì mê, vắc xin Mỹ thì chích.

 Vợ anh ngồi sau lầu bầu:

- Vắc xin Mỹ mấy ổng chích, người nhà và bạn bè mấy ổng hưởng hết trơn. Vắc xin Tàu thì để cho dân. Em thà hổng chích chứ không thèm vắc xin Tàu!

- Ừ, chích vắc xin Tàu không chừng lợi bất cập hại.

- Ăn ở gì lạ quá, mở miệng ra là chửi, xúi đàn em chửi vậy mà tiền đô nhét đầy túi, mở tài khoản ở bển để tuồn của cải, con cháu cài cắm lót ổ ở bển.

- Đời nó chó má vậy! Chỉ tội tụi lon ton thằn lằn cắc ké cuồng mà hổng được gì, cùng lắm thì được chút tiền bồi dưỡng.

 Đoàn xe xóm trọ anh Bảy đến ngã tư Hàng Xanh thì gặp nhiều đoàn xe khác từ các hướng cùng tụ về, từng dòng xe hòa nhập thành một đoàn dài chạy về hướng ngoại thành. Những con người khốn khổ rời Sài Gòn, rời khỏi mảnh đất trù phú từng mơ ước để mưu sinh. Nếu lúc trước lên Sài Gòn để sinh sống thì giờ chạy trốn Sài Gòn vì sự sống còn. Xe chạy được bốn tiếng thì thằng Tí than vãn:

- Ba, com đau đái!

 Thằng Tô ngồi giữa anh và chị cũng kêu:

- Con đói bụng quá mẹ ơi!

 Anh Bảy dỗ ngọt:

- Ráng chút nữa đi con. Chạy thêm chút xíu nữa lựa chỗ trống trải để nghỉ ăn sáng luôn.

 Chạy thêm một tiếng nữa thì hai đứa lại nhắc, anh Bảy tấp vào bên lề đường cho hai đứa đi tiểu và nghỉ chút để ăn sáng. Những chiếc xe khác cũng tấp vào nghỉ, nhìn quanh có khoảng chục gia đình ngồi rải rác, trong khi ấy dòng xe chạy dịch vẫn nối đuôi dài bất tận trên đường. Anh Bảy làm quen, hỏi người đàn ông kế bên:

- Anh chị về đâu?

Người ấy bảo:

- Tui về Huế, bạn tui về tuần trước rồi, tui ráng cầm cự xem thử có trợ cấp giúp đỡ gì không, giờ thì tuyệt vọng nên phải về thôi! Tui nghe phong phanh dường như họ bắt đầu ngăn chặn không cho dân về nữa. Tui không biết sao, cứ đi, tới đâu hay tới đó, giờ ở lại cũng chết mà đi cũng không xong.

 Anh Bảy tâm sự:

- Tui làm phụ hồ, mất việc mấy tháng rồi, vợ cầm cự đến nay thì kiệt, đành về Quảng Ngãi, anh làm gì trong đó?

- Tui làm công nhân lắp ráp trong một xưởng máy, xưởng cho nghỉ cả tháng nay, vợ cũng làm chung, cả hai thất nghiệp!

Anh Bảy nói thêm:

- Mình về còn đỡ, mấy đứa em và bạn kẹt ở khu cấm túc, không thể ra vô nên đâu về được, mà ở lại thì...chẳng còn gì ăn, thế mới chết chứ! Đúng là đi cũng dở ở không xong.

 Đột nhiên người đàn ông gốc Huế giận dữ:

- Chúng nó ột dột quá, chống dịch thì đúng rồi nhưng chống bằng cách triệt đường sống của dân thì ngu xuẩn máy móc quá! Dân chưa chết vì dịch đã điêu đứng vì sinh kế. Các nước họ lo cho dân, phát lương thực, trợ cấp tiền bạc chứ đâu có cái kiểu sống chết mặc bay như vầy!

Một người cũng kế bên, giọng Đà Nẵng góp lời:

- Chống dịch cứng nhắc, họ coi mình như cỏ rác, sống chết mặc bay, chống kiểu này dịch vẫn cứ tăng hàng ngày.

 Một người khác giọng Bình Định:

- Họ chống dịch bằng cách cấm chợ ngăn sông, không cho dân mua bán nhưng siêu thị của nhóm lợi ích thì được bán, bán với giá mắc, dân thiếu ăn mặc kệ!

 Một giọng khác nói xen vào, không rõ giọng miền nào, có lẽ lưu lạc đã lâu nên chất giọng đã pha trộn nhiều âm sắc:

- Ở sài Gòn thiếu thực phẩm, zậy mà nghe nói miền tây hàng trăm ngàn tấn gạo, thủy sản, rau ùn ứ. Đà Lạt hàng chục ngàn tấn hoa quả phải đổ bỏ, tại sao không cho xe hàng chở về Sài Gòn? Phong thành kiểu này thì chết hết dân nghèo.

 Người đàn ông gốc Huế rầu rĩ:

- Ột dột lắm anh ơi! Họ mà biết nghĩ như anh thì dân đỡ khổ, không chừng chúng ta còn bám trụ được ở Sài Gòn.

 Chị Bảy nãy giờ lặng im, chợt than:

- Nghe nói có tỉnh chốt chặn, không cho dân về vì họ sợ lây dịch, liệu mình về có được không?

Anh Bảy chán nản:

- Giờ thì không còn lựa chọn nào khác, tiến lui đều không có cửa, cứ liều vậy, tới đâu hay tới đó!

 Mọi người nghỉ xong vội vàng xốc lại xe máy để tiếp tục lên đường về nhìn kim đồng hồ trên xe máy, anh Bảy nói một mình:

- Chạy bốn lăm đến năm mươi cây số giờ kiểu này chắc phải mất ba ngày mới tới nhà.

 Dòng xe máy trên đường dài ngút  tầm mắt, không thấy điểm đầu cũng như điểm cuối, những bảng số xe cho biết hầu như các tỉnh đều có mặt. Người nào cũng trùm kín mít, nón bảo hiểm, áo dài tay che nắng gió, có người còn mặc cả áo mưa bằng nylon, tất cả chăm chăm hướng về phía trước, dù rằng phía trước lành dữ ra sao chưa đoán được, giờ chỉ một lòng về quê mà thôi! 

 Mười giờ sáng, dòng xe chạy ngang qua một thị trấn nhỏ bên đường cái quan, nhiều người giảm tốc độ rà rà ghé vào một cái quán để nhận chai nước và một phần ăn. Một cụ già và một cô cháu gái đứng phát tặng cho những người chạy dịch. Anh Bảy cũng ghé vào nhận lấy phần quà tặng của người dân xa lạ nhưng tốt bụng từ tâm. Anh thắc mắc với vợ:

- Dòng người dài dằng dặc như vầy, liệu cụ già và cô bé kia có đủ quà để phát?

 Chị Bảy lặng thinh, không biết vì không nghe thấy hay nghe mà trong lòng ẩn nhẫn không biết nói ra sao?  Lúc này mặt trời đã oi bức lắm rồi, chạy thêm chừng hai tiếng nữa thì cái nắng, từ trên đầu dội xuống, sức nóng từ mặt đường bốc lên, cái nóng bít bùng trong mũ bảo hiểm tỏa ra, sự ngột ngạt từ miếng khẩu trang bịt miệng mũi… Anh Bảy như muốn nổ tung, mồ hôi trin trỉn cả người. Người lớn còn câm nín chịu đựng, thằng Tô khóc nhè nhè, bức tóc bức tai, khóc mệt thì ngủ lịm đi, thằng Tí ngồi phía trước hứng gió táp vào mặt, tuy cũng nóng bức nhưng nó đủ nhận thức để hiểu chuyện nên không mè nheo như thằng Tô. Dòng xe máy riết róng chạy về phía trước, bỏ Sài Gòn lại sau lưng, cứ chạy thôi, còn lành dữ ra sao thì chẳng ai biết. Mọi người rời Sài Gòn chẳng qua là bất đắc dĩ, chẳng ai muốn rời bỏ nơi dễ mưu sinh nhất ở xứ sở này. Dòng xe dòng người như chạy giặc tị nạn  giữa thời bình, những người  đã tìm đến sài Gòn để lập nghiệp, kiếm sống giờ phải chạy trốn. Sài Gòn giờ nhìn đâu cũng thấy dịch, nhìn ai cũng như nguồn lây bệnh. 

 Trời nắng như đổ lửa, anh Bảy tách khỏi dòng xe trên đường, tấp vào một gốc cây bên vệ đường để nghỉ và ăn chút gì lót dạ. Nhiều người thấy thế cũng tự động tấp theo vào. Gặm cái bánh mì thịt bỏ trong ba lô bị dẹp lép, anh ăn ngon như chưa bao giờ được ăn. Chị Bảy lấy thức ăn cho hai đứa con và cùng ăn với chúng, Ăn xong ai nấy tự động nằm thẳng ra đất cho cái lưng đỡ mỏi, bây giờ chẳng còn khái niệm sạch dơ bụi bặm gì nữa. Sau khi nghỉ ngơi lại sức, dòng xe lại tiếp tục chạy về miền trung, mảnh đất nghèo khó nhiều thiên tai và cả nhân tai. Miền trung được bọn văn sĩ, thi sĩ ví như cái đòn gánh, lại có kẻ ví như khúc ruột… Dù gì thì nó cũng từng là cái nôi của nhiều nền văn minh cổ của quốc gia này, nào chỉ là văn minh tộc Việt, còn nhiều tộc người khác trước cả tộc Việt rất lâu. Miền trung mang nhiều vết thương lòng, năm xưa khói lửa chiến chinh, dòng người ùn ùn di tản kéo về nam, chạy về Sài Gòn để tránh giặc, nào ngờ mấy mươi năm sau người ta lại lũ lượt bỏ chạy khỏi sài Gòn để tránh dịch. Không biết cái nghiệp gì mà những người con của tộc Việt đau khổ không thế này? Bao nhiêu khổ nạn vận vào họ, những dòng người xưa nay tơi tả chạy ngược chạy xuôi, ai dám bảo tương lai sẽ không còn chạy? 

 Dòng người lặng thầm chạy về phía trước, chỉ có tiếng xe máy khìn khìn, phành phạch khuấy động cái nóng, kích thích cái nóng trên đường. Cứ chạy như thế cho đến khi tối mịt mùng, nhiều tốp tấp vào bên đường, dùng ánh đèn xe máy để ăn uống, những gói mì khô khốc, những cái bánh mì xẹp lép dai nhách, những gói cơm nguội… bị những người đang đói bụng ăn ngấu nghiến một cách ngon lành, rải rác quanh đó có nhiều người mệt quá nằm ngủ thiếp đi. Chị Bảy gối đầu lên cái ba lô, trong ấy còn một ít tiền và nữ trang, đó là tất cả sự sống còn cho những ngày sắp tới, chị ôm thằng Tô ngủ một giấc ngủ chập chờn mộng mị. Anh Bảy Bá cẩn thận hơn, anh buộc chân vào bánh xe máy, phòng khi ngủ say bị  trộm dắt xe thì biết, có lẽ bản tánh người trung là vậy, tuy nhiên trong lúc này thì sự cẩn thận ấy cũng thừa. Không một thằng ăn trộm nào dám bén mảng đến dòng người chạy dịch đông đúc như thế này! Anh Bảy cẩn thận, đề phòng là vậy, nhưng với chiếc xe máy hay những cái nhỏ nhặt chứ còn những việc lớn như sinh mệnh anh và gia đình, sự sống, sinh kế… thì hoàn toàn định đoạt bởi người ta. Mà nào chỉ có anh, hàng triệu người ở xứ sở này cũng đều bị như thế cả. Anh Bảy và dòng người lên Sài Gòn kiếm sống và rồi chạy dịch cũng vì sự sống, cuộc sống đẩy đưa, dòng đời đưa đẩy như bèo dạt mây trôi.


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 08/2021

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.