Hôm nay,  

Lân Xóm Chợ

11/09/202114:25:00(Xem: 3674)

 


 Tiếng trống thì thùng vang khắp xóm chợ, xóm chùa, xóm đình… Âm thanh trống lân giục giã đầy hào hứng tỏa đến từng nhà, lọt vào lỗ nhĩ thằng Tí. Tiếng trống kích thích nó, làm cho nó và cơm thật lẹ, đoạn nó chan canh vào chén để húp cho xong, dường như nó nuốt chứ hổng có nhai. Cô Hai nhìn nó rồi đưa mắt cho chú Hai:

- Thường ngày đâu có vậy, nó ăn nhơi nhơi cả buổi hổng hết chén cơm, vậy mà bữa nay nó ăn nhanh như lân ăn bắp cải.

 Chú Hai cười, cả nhà cũng cười theo. Thằng Tèo, anh hai của nó tài lanh:

- Nó ăn lẹ để chạy ra ngoài xóm coi múa lân đó!

 Thằng Tí quạu:

- Bộ anh hai hổng đi coi hả?

 Nói xong nó buông cái chén sạch trơn xuống bàn rồi vội vàng uống ly nước thât to:

- Má, con đi coi múa lân đó nha!

 Vừa nói vừa chạy, cô Hai với theo:

- Hổng chờ anh hai đi sao Tí? Đi nhớ về sớm, không được theo đoàn lân đi xa!

 Tiếng dạ của thàng Tí mất hút theo bóng nó. Cô Hai bảo:

- Tèo, con đi coi múa lân ngoài xóm nhớ trông chừng em nha, đừng để nó theo lân đi xa đó!

 Thằng Tèo cũng vội vàng lao ra khỏi cửa, đuổi theo thằng Tí.

 Trời mới đầu hôm mà con nít từ các xóm túa hết ra đường, mà nào chỉ có con nít, thanh niên nam nữ cũng tụ tập tụm năm tụm ba, ai ai cũng bâu quanh đoàn múa lân. Đêm nay mới là đêm mười bốn thôi, nhưng trăng đã tròn vành vạnh to như cái mâm, ánh sáng trăng bàng bạc rải khắp xóm, những cây đuốc lồ ô cháy hừng hực soi ánh lửa vàng pha sắc đỏ soi tỏ mặt người. Tiếng í ới gọi nhau, tiếng bàn tán xôn xao, tiếng trống thì thùng, tiếng chiêng phèng phèng…làm tưng bừng cơ hồ như đêm nay sẽ không ngủ. Đoàn lân xóm chợ xưa nay nổi tiếng nhất quận, ba năm liền đoạt giải nhất. Lân xóm chợ đẹp nhất, oai phong nhất, lân biết chớp mắt, nhép mở hàm. Ông địa cũng đẹp, miệng cười toa toét, ngoài lân và địa ra còn có thêm nhân vật Trư bát Giới để xôm tụ thêm. Anh Hai Luân làm trưởng đoàn lân, anh có tài nghệ múa lân giỏi nhất quận. Anh lại sẵn lòng truyền nghệ cho đàn em, Tụi thằng Mùi, thằng Cảnh, thằng Đức… đều được anh kèm cặp chỉ bảo từng động tác, từng điệu bộ. Anh hai Luân múa Lân giỏi là vậy, nhưng dân các xóm vẫn khoái xem anh làm ông địa hơn. Khi làm ông địa anh không cần độn bụng vì cái bụng anh chang bang như ông địa rồi. Anh thủ vai ông địa thì y như nhập thần vậy, lúc ấy người ta không biết anh nhập vai ông địa hay ông địa hóa thành Hai Luân. Ông địa cười ngả ngớn, phe phẩy quạt mo. Ông địa Hai Luân dập dềnh như người say, khi thì xàng qua bên này khi thì ngả nghiêng bên nọ...Con nít cười bể bụng luôn. Thằng Tí cứ xáp vào vỗ vỗ cái bụng ông địa Hai Luân. Ông địa quạt quạt nó, cười với nó.

 Đoàn lân đang múa trước sân đình Vân Hội để làm lễ trước khi xuất quân. Ông từ giữ đình treo một cái bao thơ đỏ để làm lộc cho đoàn lân, ngoài ra còn có mấy cái bắp cải để thưởng cho lân. Ông từ hiền từ thật, ổng treo vừa tầm với chứ không chơi ác treo cao như mấy nhà giàu trong xóm. Năm nào cũng vậy, lân phải trầy trật khó lắm mới ngoạm được cái bao thơ treo cao chót vót ấy.

 Đêm mười bốn âm lịch vui ơi là vui, đình Vân Hội như sống dậy những ngày xa xưa, cửa đình mở rộng, đèn cầy cháy sáng lung linh, ngoài sân người cầm đuốc đi lại lăng xăng. Ánh trăng như tơ vàng trải từ không gian xuống mái đình rêu phong cổ kính. Ánh trăng lại như dòng sữa chảy tràn cả xóm chợ, xóm đình, xóm chùa… Ánh trăng xuyên qua tán lá rơi rải rác những mảng sáng loang loáng khắp các con đường trong xóm. Con đường từ đình đi ra gò Yến vốn tối thẫm vì những hàng tre ken dày hai bên, vậy mà dưới ánh trăng trông đẹp và thơ mộng quá chừng. Thường ngày, những đêm tối trời, ít ai dám qua lại con đường này. Dân mấy xóm quanh đình sợ ma, có người còn cả quyết đã thấy ma đánh đu tòn teng trên mấy bụi tre. Ánh trăng dát bạc khắp cánh đồng Ông Tà, đồng Ông Tà nằm ngay trước đình, mỗi khi lúa gặt xong thì cánh đồng trở thành sân chơi của con nít trong xóm. Còn những đêm trăng như đêm nay thì trai gái tụ tập hóng mát, ngồi tâm tình, có nhóm gầy độ nhậu ngoài đồng dưới ánh trăng. 

 Sau khi bái yết xong, đoàn lân bắt đầu kéo đi múa trong xóm. Tiếng trống của đoàn lân đi tới đâu thì con nít rần rần theo tới đó, cả một đoàn dài cầm đuốc đi trong đêm trăng, có một số khác thì cầm lồng đèn, nào là đèn ngôi sao, đèn bánh ú, đèn cá chép… đủ kiểu, đủ màu sắc. Hễ nhà nào có treo thưởng thì đoàn lân dừng lại để múa. Đoàn lân đến nhà thằng Tí, chú Hai treo nải chuối và bao thơ làm phần thưởng, cửa mở rộng ra. Thằng Tí theo lân chạy vào nhà, nó mừng vui và hãnh diện nói với thằng Tùng, thằng Đẹn, cu Sứt, cu Lọt…:

- Nhà tao năm nào cũng được lân dzô nhà đó nhen! Ba tao nói lân hên lắm, lân tới thì tà ma lui. Lân đem lại may mắn cho nhà nào mà nó dzô.

 Thằng Tí còn đang say sưa tám thì thằng Tèo chạy lại:

- Nãy giờ mầy đi đâu mất tiêu, tao tìm mầy khắp nơi mà hổng thấy. Má biểu tao canh chừng mầy, không được theo lân đi xa đó nha!

- Tui biết rồi, mà nãy giờ anh hai đi đâu dzậy?

- Thì tao cũng theo coi múa lân

- Sao tui hổng thấy anh?

- Đông như vầy bộ dễ thấy lắm hả?

Cu Lọt chen vào giữa hai anh em nó:

- Mấy nhà mua bán giàu có ở xóm chợ thường rước lân dzìa múa khai trương, mở hàng để lấy hên. Sáng mai là rằm tháng tám, lân còn lên chùa Bàu Lương lễ nữa đó.

 Cu Sót lý luận:

- Ba tao nói lân mình khác lân Tàu. Lân Tàu có năm màu theo ngũ hành, lân mình chỉ một lân là đủ rồi. Người Tàu thích múa rồng dài thòn lòn.

 Thằng Tí vậy mà lanh, nó có cái nhìn khá sành điệu so với cái tuổi của nó:



- Lân Tàu hổng có ông địa, lân mình có hai ông địa rập rền hai bên. Ông địa hầu lân, ông địa vui tánh và dễ thương gì đâu á!

 Thằng Tèo lớn tuổi nhất đám con nít xóm chợ, nó có cái hiểu biết hơn hẳn. Nó hỏi đố:

- Tụi bay có biết tại sao ông địa cái bụng chang bang, cái miệng cười toe toét?

 Gần như đồng loạt, cu Tí, cu Sót, cu Đẹn, thằng Đức...đồng biễu môi:

- Ai mà biết!

 Thằng Tèo nghênh nghênh cái mặt ra vẻ đàn anh:

- Ba tao nói, địa là đất, đất thì phải rộng rãi to lớn mới chứa được mọi thứ, bởi vậy người ta mới chế ra ông địa cái bụng chang bang như bà bầu, cái miệng cười qúa cỡ thợ mộc là để cho người ta vui, đem may mắn đến cho mọi người. 

 Cả đám con nít hả miệng ra:

- Ờ hớ, ừ hứ… vậy mà hồi nào giờ có biết đâu, cứ ngỡ ông địa nhậu nhiều nên cái bụng chang bang như chú Hai Luân.

 Nãy giờ tụi nhóc đang tám, tiếng trống rì rầm thì thụp giữ điệu cho lân say, lân ngủ. Bất chợt trống đập thùng thùng, chiêng dập phèng phèng cao độ, thì ra là đã đến nhịp lân ăn, lân chúc phúc gia chủ và lân cáo từ. Đoàn lân ra khỏi nhà thằng Tí để đi đến những nhà khác có treo thưởng. 

 Đêm dần về khuya, tiếng trống nghe thanh lạ lùng, tiếng trống khơi dậy sự tịch mịch của cả năm trường ở xóm chợ, xóm chùa, xóm đình… Tiếng trống khuấy động cái trầm lắng của cánh đồng Ông Tà. Tiếng trống vọng vào đình, len lỏi từng ngõ ngách trong thôn xóm, Tiếng trống len trong tâm tư ký ức của thàng Tí, của đám nhóc con và cả tâm tư của bao thế hệ người ở đây. Trong khi ấy ánh trăng đêm mười bốn lại chiếu rõ tâm tư mọi người, dù là chưa phải đêm rằm chính nhưng đôi khi trăng mười bốn lại là trăng đẹp hơn, có nhiều thời gian rỗi hơn để ngắm. Mặt trăng như tấm kiếng khổng lồ từ trên cao hắt ánh sáng dìu dịu xuống xóm làng. Ánh trăng lay động theo nhịp của trống lân.

Ánh trăng rập rờn qua tán lá cành cây. Ánh trăng rơi trên những con đường trong thôn tạo thành những vệt sáng dài thăm thẳm, cứ ngỡ như những dòng sông ánh sáng trong đêm trung thu tháng tám. Thằng Tí nắm tay thằng Tèo giựt giựt chỉ mặt trăng:

- Thằng Cuội ở trên ấy chắc buồn lắm phải hôn anh Hai? Nó đâu có được coi múa lân, đâu có  lồng đèn hay đuốc để chơi. Nó mà nghe trống lân chắc nó thích lắm ha anh Hai?

 Thằng Tèo ra vẻ già dặn kiểu người lớn:

- Ừ, buồn là cái chắc, cung trăng hay cung dzua cũng dzậy thôi, thui thủi một mình buồn chết!

 Gần mười một giờ đêm hai anh em Tí và Tèo mới qquay về nhà. Cô Hai và chú Hai rầy nhẹ:

- Đã bảo đừng có theo lân đi xa về khuya, dzậy mà cũng hổng nghe lời. Hai đứa vô rửa ráy lại rồi đi ngủ.

 Chú Hai lại nói với cô Hai:

- Trưa mai, đúng ngọ, đoàn lân xóm chợ sẽ múa cúng dường ở chùa Bàu Lương, vừa đúng ngày rằm tháng tám vừa để an vị tôn tượng bồ tát Địa Tạng luôn. Mai cả nhà mình luôn chùa lễ Phật.

 Cô Hai trả lời:

- Dạ, em nhớ mà, để sáng mai em nhắc cậu Bảy với má luôn, nếu có đi thì đi chung. Má vẫn lên chùa vào ngày rằm và mùng một, chưa bỏ sót bao giờ.

 Cả nhà tắt đèn đi ngủ, ngoài sân ánh trăng ngà đêm mười bốn bao phủ cả không gian, ánh trăng trùm lên sơn hà vạn vật, người và muôn loài chìm vào trong giấc ngủ êm đềm trong không khí thanh bình.

 Trong lúc người ta ngủ hay thức dòng đời như dòng sông vẫn trôi mãi không ngừng nghỉ bao giờ, dòng thời gian vô tình như nước chảy mây bay, dòng thiên nhiên thay đổi biến hoại liên miên, dòng tử sanh vẫn tất bật sanh diệt trong mỗi sát na. Xóm chợ ngày nào giờ trở thành một thị trấn nhỏ nhưng khá sầm uất, mua bán rộn ràng. Thằng Tí ngày xưa giờ đã là ba của hai thằng Tí, Tèo mới. Ba má của thằng Tí trước thì giờ đã là ông bà nội ở vào cái tuổi “ Cổ lai hy” rồi! Thằng Tí cũng đã là dân thành đô hơn hai mươi mấy năm trời, nó xa cái xóm chợ kể từ khi lên thành trọ học. 

 Đêm thành đô lặng lẽ im lìm chi lạ, nhiều lúc cứ ngỡ như thành phố ma trong phim “ Walking Dead”. Thành đô bị phong thành đã mấy tháng qua. Dân chúngđiêu đứng, mọi hoạt động kinh tế, xã hội đều dừng lại hết, cuộc sống càng lúc càng túng thiếu. Tình hình như thế này thì trung thu năm nay coi như tiêu. Người lớn thì không nói gì chỉ tội tụi nhóc con không có được cái vui của tuổi thơ. Ti vi đưa tin người nhiễm bệnh, người chết vẫn tăng chứ chưa thấy giảm dù đó là con số không thật. Thành đô vẫn phong tỏa rất ngặt nghèo, nhân viên hành xử vô lý và máy móc như robot, việc sống chết bây giờ quả thật vô thường thấy rõ. Nhiều người mới hôm qua còn đó, vậy mà hôm nay bị cách ly và vài ngày sau lại thấy về trong cái hũ sành đựng nhúm tro. Anh Tí thấy cũng nản và sợ lắm chứ, nhưng vẫn phải hy vọng mà sống, hy vọng dịch bệnh qua nhanh để cuộc sống trở lại bình thường. Anh Tí nói với vợ:

- Tội mấy đứa nhỏ, không có được cái khung cảnh trăng trung thu thanh bình như tụi mình ngày xưa ở dưới quê. Con nít thành đô đâu có biết cái thú chạy theo đoàn lân để nghe trống và xem múa lân. Thành đô cũng có những đoàn lân sư rồng nhưng đó là việc kinh doanh chuyên nghiệp, họ chỉ múa theo hợp đồng làm ăn khai trường mở tiệm hoặc theo những thỏa thuận, giá cả từ vài chục triệu đến trăm triệu như chơi. Thành đô khôing có những đoàn lân tự làm tự diễn và múa một cách đầy hứng khởi, đầy máu văn nghệ như dưới quê những ngày xưa.

 Thành đô đêm nay trăng sáng vằng vặc, ánh trăng rơi trên những mái nhà bê tông xám xịt, ánh trăng chưa kịp rơi xuống mặt đường thì đã tan biến vào ánh đèn đường. 


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 09/2021

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
Cuối tháng Ba, những cơn gió nóng tràn về thành phố. Một hai trận mưa lạc loài đến sớm rồi thôi. Không khí ngột ngạt. Mùi đất nồng khó chịu. Như một cô gái uể oải trong cơn bệnh, thành phố trông mệt mỏi, rạc rời. Đoan đi vào Câu lạc bộ của trường. Bình thường, cứ đến thứ Sáu là không khí chuẩn bị cho chiều văn nghệ thứ Bảy lại nhộn nhịp. Nhưng hôm nay, như có một cái gì kéo mọi thứ chùng xuống. Chị Thuận, người phụ trách Câu lạc bộ, mỉm cười khi thấy Đoan, nhưng là một nụ cười kém tươi. Chị vẫn câu chào hỏi thường lệ: “Em uống gì không?” “Dạ, chị cho em nước chanh.” Chị Thuận pha ly nước chanh đặc biệt, nóng, ít đường, mang đến để trước mặt Đoan, và kéo ghế ngồi xuống bên Đoan. Hình như không có gì để bắt chuyện, chị Thuận nhìn ra sân, nói nhỏ:
Tôi khép cánh cửa phòng ngủ, rón rén bước ra, sợ gây tiếng động làm thằng cháu nội lại giật mình thức giấc; thằng bé đã mười tháng tuổi, biết làm đủ thứ trò như con khỉ con, chiếc mũi bé xíu của nó chun lại, đôi môi dầy cong lên, mỗi khi bà nội bảo nó làm xấu, thật dễ thương, canh nó hơi mệt vì phải chơi cho nó đừng chán, lèo nhèo, nhưng chơi nhiều thì sức bà nội có hạn, làm sao chạy theo nó cả ngày được!
Những cái mặt hướng về phía trước. Những cái đầu hơi cúi, những cái lưng hơi còng có lẽ bởi sức nặng của chiếc ba lô đeo sau lưng, hay tại - nói một cách màu mè, văn vẻ, đầy giả dối là - gánh nặng của đời sống. Trước mặt tối đen. Bên phải là những cánh cửa cuộn bằng tôn đóng kín. Những cánh cửa lạnh lùng, vô cảm; lầm lì từ khước, âm thầm xua đuổi. Dưới chân là nền xi măng. Cứng và lạnh. Không thể là nơi tạm dừng chân, nghỉ mệt. Sâu vào phía sát vách là nền lót những viên gạch vuông. Không một cọng rác. Không một bóng chó hoang, mèo lạc. Không cả những hình hài vô gia cư bó gối vẩn vơ nhìn nhân gian qua lại.
Đức hạnh cao quý thể hiện thành tâm vô phân biệt. Tâm vô phân biệt tạo thành một sự bình đẳng tuyệt đối trong giáo pháp của đức phật. Giáo pháp thâm sâu vi diệu của Như Lai thì không phải ai cũng hiểu hết, cũng ngộ được điều đó đa phần các vị đại trí thấu đạt. Còn lòng từ bi của phật thì lan tỏa vô phân biệt như ánh sáng mặt trời soi sáng khắp nơi nơi, như mưa rơi tắm mát đại ngàn. Những lời giảng dậy trên đây được dẫn chứng nhiều và rõ nhứt là ở phật giáo Tây Tạng.
Anh Hai của tôi, sau chuyến vượt biên thất bại, bị giam ở nhà tù Bình Đại Bến Tre chín tháng, khi trở lại trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ mới biết đã bị cắt hộ khẩu, mất việc làm, bèn quay về Sài Gòn sống tạm với gia đình, chờ cơ hội vượt biên tiếp theo. Một hôm, anh bị cơn sốt rét tái phát hành hạ, (hậu quả của những ngày trong trại giam), cần phải đến bệnh viện chữa trị, nhưng hộ khẩu không có, anh bèn mượn cái Sổ Sức Khỏe của thằng cháu (con bà chị họ ở kế bên nhà), để đi khám bệnh
Năm đó, tôi qua Arlington,Texas thăm gia đình, rồi ghé Dallas thăm người hàng xóm cũ thân thiết từ khi còn ở Việt Nam . Chú Thím ấy đónvợ chồng tôi nồng hậu như mọi khi, bữa ăn đặc sản món Huế như tôi yêu cầu, sau đó kéo nhau ra phòng khách ăn bánh uống trà . Rồi Thím gọi cháu ngoại: - Thiên Ân ơi, ra đây ca hát cho hai bác Canada nghe đi con.-Cô bé hai, ba tuổi tung tăng ngoan ngoãn khoanh tay chào chúng tôi, rồi bạo dạn chạy ra giữa phòng, tay giả bộ cầm micro phone, rồi nhún nhảy tự nhiên hát một bài hát Tiếng Việt thật rõ ràng .
Ngày xưa rất xa xưa, ở vùng quê thôn dã, người dân sống giản dị, đơn sơ, mộc mạc; người ta trồng tỉa những vườn rau cải, vườn ngô, vườn cà… lấy hoa lợi để sống. Thường thường có chim chóc kiếm ăn đến phá phách, dãi dãi, mổ mổ những hạt mới ươm trồng hay những nụ hoa mới ra, chúng ăn, với con người trồng tỉa lấy hoa lợi là chúng nghịch ngợm và phá hoại, ăn khín. Mới đầu chúng đến một vài con, sau rủ nhau đến nhiều hơn, cả nhà cả đàn chim chóc… và người gia chủ trồng tỉa phải tìm cách bảo vệ hoa màu của họ, nguồn sống của họ.
Người đàn bà với tay kéo tấm bạt vải phủ hai mặt bàn thấp và lổng chổng mấy cái ghế úp lại phía trên. Buổi chiều tháng chín nhả vài vệt nắng vàng sậm trên mấy lùm cây mắm khẳng khiu mọc hoang dại bên hông. Căn nhà chia làm hai, phía trên mặt lộ làm quán lộ thiên, phần còn lại là căn nhà sàn nằm doi ra mặt bờ kinh Cụt. Mặt quán cũng được biến dạng mỗi ngày. Sáng có cà-phê, hàng xôi và thuốc lá. Buổi trưa là quán cơm bình dân cho đám khách hàng chợ Giữa, đến từ các huyện xa xôi. Tối đến, chỉ còn vỏn vẹn thùng thuốc lá bán lẻ. Tất cả sinh hoạt biến dạng dưới bàn tay của người đàn bà và đứa con gái nhỏ. Người ta nhìn thấy trong đôi mắt nâu đen của hai má con in đậm hình ảnh căn nhà chật chội, bày biện lượm thượm những ghế bàn buồn bã, lạnh lùng. Bóng dáng người đàn bà và bếp lửa áo cơm, vẫn không đủ vẽ lên khung cảnh đầm ấm của một gia đình. Đứa con gái mười bốn tuổi, giống má, lầm lũi như chiếc bóng trong nhịp đời hờ hững.
Ai cũng có những hoài niệm mang theo cả cuộc đời, hoài niệm ngày càng nhiều theo tuổi tác dâng lên, người may mắn có nhiều hoài niệm vui hơn buồn để khi chợt nhớ thấy lòng vui vui. Ai cũng có những ước mơ thầm kín để khi hoài niệm thấy mình còn là người, giả như ước mơ cho người yêu cũ có cuộc sống hạnh phúc. Điều ấy nói ra ai tin nên xếp vào ước mơ thầm kín, còn những ước mơ nói ra được chỉ là hoang tưởng nhất thời như thấy chiếc xe đẹp lướt qua, ước gì mình có chiếc xe ấy. Nhưng giả sử ngày mai trúng số, có tiền mua chiếc xe ấy thì ước mơ nói ra được hôm qua đã thay đổi thành chiếc xe mắc tiền hơn nữa và đẹp hơn nữa vì là chiếc xe của hôm nay, của người mới trúng số. Khác với ước mơ thầm kính vui buồn riêng mang coi vậy mà theo ta như hình với bóng, càng thầm kín càng bền lâu sau nỗi buồn chia xa đã gặm nhấm tâm can theo tháng ngày, nghe tin người xưa không hạnh phúc thì nỗi buồn tăng lên gấp đôi nhưng nói ra ai tin trong trời đất bao la này…
Truyện HOÀNG CHÍNH - Thứ Mùa Màng Không Có Thật


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.