Hôm nay,  

Lân Xóm Chợ

11/09/202114:25:00(Xem: 3679)

 


 Tiếng trống thì thùng vang khắp xóm chợ, xóm chùa, xóm đình… Âm thanh trống lân giục giã đầy hào hứng tỏa đến từng nhà, lọt vào lỗ nhĩ thằng Tí. Tiếng trống kích thích nó, làm cho nó và cơm thật lẹ, đoạn nó chan canh vào chén để húp cho xong, dường như nó nuốt chứ hổng có nhai. Cô Hai nhìn nó rồi đưa mắt cho chú Hai:

- Thường ngày đâu có vậy, nó ăn nhơi nhơi cả buổi hổng hết chén cơm, vậy mà bữa nay nó ăn nhanh như lân ăn bắp cải.

 Chú Hai cười, cả nhà cũng cười theo. Thằng Tèo, anh hai của nó tài lanh:

- Nó ăn lẹ để chạy ra ngoài xóm coi múa lân đó!

 Thằng Tí quạu:

- Bộ anh hai hổng đi coi hả?

 Nói xong nó buông cái chén sạch trơn xuống bàn rồi vội vàng uống ly nước thât to:

- Má, con đi coi múa lân đó nha!

 Vừa nói vừa chạy, cô Hai với theo:

- Hổng chờ anh hai đi sao Tí? Đi nhớ về sớm, không được theo đoàn lân đi xa!

 Tiếng dạ của thàng Tí mất hút theo bóng nó. Cô Hai bảo:

- Tèo, con đi coi múa lân ngoài xóm nhớ trông chừng em nha, đừng để nó theo lân đi xa đó!

 Thằng Tèo cũng vội vàng lao ra khỏi cửa, đuổi theo thằng Tí.

 Trời mới đầu hôm mà con nít từ các xóm túa hết ra đường, mà nào chỉ có con nít, thanh niên nam nữ cũng tụ tập tụm năm tụm ba, ai ai cũng bâu quanh đoàn múa lân. Đêm nay mới là đêm mười bốn thôi, nhưng trăng đã tròn vành vạnh to như cái mâm, ánh sáng trăng bàng bạc rải khắp xóm, những cây đuốc lồ ô cháy hừng hực soi ánh lửa vàng pha sắc đỏ soi tỏ mặt người. Tiếng í ới gọi nhau, tiếng bàn tán xôn xao, tiếng trống thì thùng, tiếng chiêng phèng phèng…làm tưng bừng cơ hồ như đêm nay sẽ không ngủ. Đoàn lân xóm chợ xưa nay nổi tiếng nhất quận, ba năm liền đoạt giải nhất. Lân xóm chợ đẹp nhất, oai phong nhất, lân biết chớp mắt, nhép mở hàm. Ông địa cũng đẹp, miệng cười toa toét, ngoài lân và địa ra còn có thêm nhân vật Trư bát Giới để xôm tụ thêm. Anh Hai Luân làm trưởng đoàn lân, anh có tài nghệ múa lân giỏi nhất quận. Anh lại sẵn lòng truyền nghệ cho đàn em, Tụi thằng Mùi, thằng Cảnh, thằng Đức… đều được anh kèm cặp chỉ bảo từng động tác, từng điệu bộ. Anh hai Luân múa Lân giỏi là vậy, nhưng dân các xóm vẫn khoái xem anh làm ông địa hơn. Khi làm ông địa anh không cần độn bụng vì cái bụng anh chang bang như ông địa rồi. Anh thủ vai ông địa thì y như nhập thần vậy, lúc ấy người ta không biết anh nhập vai ông địa hay ông địa hóa thành Hai Luân. Ông địa cười ngả ngớn, phe phẩy quạt mo. Ông địa Hai Luân dập dềnh như người say, khi thì xàng qua bên này khi thì ngả nghiêng bên nọ...Con nít cười bể bụng luôn. Thằng Tí cứ xáp vào vỗ vỗ cái bụng ông địa Hai Luân. Ông địa quạt quạt nó, cười với nó.

 Đoàn lân đang múa trước sân đình Vân Hội để làm lễ trước khi xuất quân. Ông từ giữ đình treo một cái bao thơ đỏ để làm lộc cho đoàn lân, ngoài ra còn có mấy cái bắp cải để thưởng cho lân. Ông từ hiền từ thật, ổng treo vừa tầm với chứ không chơi ác treo cao như mấy nhà giàu trong xóm. Năm nào cũng vậy, lân phải trầy trật khó lắm mới ngoạm được cái bao thơ treo cao chót vót ấy.

 Đêm mười bốn âm lịch vui ơi là vui, đình Vân Hội như sống dậy những ngày xa xưa, cửa đình mở rộng, đèn cầy cháy sáng lung linh, ngoài sân người cầm đuốc đi lại lăng xăng. Ánh trăng như tơ vàng trải từ không gian xuống mái đình rêu phong cổ kính. Ánh trăng lại như dòng sữa chảy tràn cả xóm chợ, xóm đình, xóm chùa… Ánh trăng xuyên qua tán lá rơi rải rác những mảng sáng loang loáng khắp các con đường trong xóm. Con đường từ đình đi ra gò Yến vốn tối thẫm vì những hàng tre ken dày hai bên, vậy mà dưới ánh trăng trông đẹp và thơ mộng quá chừng. Thường ngày, những đêm tối trời, ít ai dám qua lại con đường này. Dân mấy xóm quanh đình sợ ma, có người còn cả quyết đã thấy ma đánh đu tòn teng trên mấy bụi tre. Ánh trăng dát bạc khắp cánh đồng Ông Tà, đồng Ông Tà nằm ngay trước đình, mỗi khi lúa gặt xong thì cánh đồng trở thành sân chơi của con nít trong xóm. Còn những đêm trăng như đêm nay thì trai gái tụ tập hóng mát, ngồi tâm tình, có nhóm gầy độ nhậu ngoài đồng dưới ánh trăng. 

 Sau khi bái yết xong, đoàn lân bắt đầu kéo đi múa trong xóm. Tiếng trống của đoàn lân đi tới đâu thì con nít rần rần theo tới đó, cả một đoàn dài cầm đuốc đi trong đêm trăng, có một số khác thì cầm lồng đèn, nào là đèn ngôi sao, đèn bánh ú, đèn cá chép… đủ kiểu, đủ màu sắc. Hễ nhà nào có treo thưởng thì đoàn lân dừng lại để múa. Đoàn lân đến nhà thằng Tí, chú Hai treo nải chuối và bao thơ làm phần thưởng, cửa mở rộng ra. Thằng Tí theo lân chạy vào nhà, nó mừng vui và hãnh diện nói với thằng Tùng, thằng Đẹn, cu Sứt, cu Lọt…:

- Nhà tao năm nào cũng được lân dzô nhà đó nhen! Ba tao nói lân hên lắm, lân tới thì tà ma lui. Lân đem lại may mắn cho nhà nào mà nó dzô.

 Thằng Tí còn đang say sưa tám thì thằng Tèo chạy lại:

- Nãy giờ mầy đi đâu mất tiêu, tao tìm mầy khắp nơi mà hổng thấy. Má biểu tao canh chừng mầy, không được theo lân đi xa đó nha!

- Tui biết rồi, mà nãy giờ anh hai đi đâu dzậy?

- Thì tao cũng theo coi múa lân

- Sao tui hổng thấy anh?

- Đông như vầy bộ dễ thấy lắm hả?

Cu Lọt chen vào giữa hai anh em nó:

- Mấy nhà mua bán giàu có ở xóm chợ thường rước lân dzìa múa khai trương, mở hàng để lấy hên. Sáng mai là rằm tháng tám, lân còn lên chùa Bàu Lương lễ nữa đó.

 Cu Sót lý luận:

- Ba tao nói lân mình khác lân Tàu. Lân Tàu có năm màu theo ngũ hành, lân mình chỉ một lân là đủ rồi. Người Tàu thích múa rồng dài thòn lòn.

 Thằng Tí vậy mà lanh, nó có cái nhìn khá sành điệu so với cái tuổi của nó:



- Lân Tàu hổng có ông địa, lân mình có hai ông địa rập rền hai bên. Ông địa hầu lân, ông địa vui tánh và dễ thương gì đâu á!

 Thằng Tèo lớn tuổi nhất đám con nít xóm chợ, nó có cái hiểu biết hơn hẳn. Nó hỏi đố:

- Tụi bay có biết tại sao ông địa cái bụng chang bang, cái miệng cười toe toét?

 Gần như đồng loạt, cu Tí, cu Sót, cu Đẹn, thằng Đức...đồng biễu môi:

- Ai mà biết!

 Thằng Tèo nghênh nghênh cái mặt ra vẻ đàn anh:

- Ba tao nói, địa là đất, đất thì phải rộng rãi to lớn mới chứa được mọi thứ, bởi vậy người ta mới chế ra ông địa cái bụng chang bang như bà bầu, cái miệng cười qúa cỡ thợ mộc là để cho người ta vui, đem may mắn đến cho mọi người. 

 Cả đám con nít hả miệng ra:

- Ờ hớ, ừ hứ… vậy mà hồi nào giờ có biết đâu, cứ ngỡ ông địa nhậu nhiều nên cái bụng chang bang như chú Hai Luân.

 Nãy giờ tụi nhóc đang tám, tiếng trống rì rầm thì thụp giữ điệu cho lân say, lân ngủ. Bất chợt trống đập thùng thùng, chiêng dập phèng phèng cao độ, thì ra là đã đến nhịp lân ăn, lân chúc phúc gia chủ và lân cáo từ. Đoàn lân ra khỏi nhà thằng Tí để đi đến những nhà khác có treo thưởng. 

 Đêm dần về khuya, tiếng trống nghe thanh lạ lùng, tiếng trống khơi dậy sự tịch mịch của cả năm trường ở xóm chợ, xóm chùa, xóm đình… Tiếng trống khuấy động cái trầm lắng của cánh đồng Ông Tà. Tiếng trống vọng vào đình, len lỏi từng ngõ ngách trong thôn xóm, Tiếng trống len trong tâm tư ký ức của thàng Tí, của đám nhóc con và cả tâm tư của bao thế hệ người ở đây. Trong khi ấy ánh trăng đêm mười bốn lại chiếu rõ tâm tư mọi người, dù là chưa phải đêm rằm chính nhưng đôi khi trăng mười bốn lại là trăng đẹp hơn, có nhiều thời gian rỗi hơn để ngắm. Mặt trăng như tấm kiếng khổng lồ từ trên cao hắt ánh sáng dìu dịu xuống xóm làng. Ánh trăng lay động theo nhịp của trống lân.

Ánh trăng rập rờn qua tán lá cành cây. Ánh trăng rơi trên những con đường trong thôn tạo thành những vệt sáng dài thăm thẳm, cứ ngỡ như những dòng sông ánh sáng trong đêm trung thu tháng tám. Thằng Tí nắm tay thằng Tèo giựt giựt chỉ mặt trăng:

- Thằng Cuội ở trên ấy chắc buồn lắm phải hôn anh Hai? Nó đâu có được coi múa lân, đâu có  lồng đèn hay đuốc để chơi. Nó mà nghe trống lân chắc nó thích lắm ha anh Hai?

 Thằng Tèo ra vẻ già dặn kiểu người lớn:

- Ừ, buồn là cái chắc, cung trăng hay cung dzua cũng dzậy thôi, thui thủi một mình buồn chết!

 Gần mười một giờ đêm hai anh em Tí và Tèo mới qquay về nhà. Cô Hai và chú Hai rầy nhẹ:

- Đã bảo đừng có theo lân đi xa về khuya, dzậy mà cũng hổng nghe lời. Hai đứa vô rửa ráy lại rồi đi ngủ.

 Chú Hai lại nói với cô Hai:

- Trưa mai, đúng ngọ, đoàn lân xóm chợ sẽ múa cúng dường ở chùa Bàu Lương, vừa đúng ngày rằm tháng tám vừa để an vị tôn tượng bồ tát Địa Tạng luôn. Mai cả nhà mình luôn chùa lễ Phật.

 Cô Hai trả lời:

- Dạ, em nhớ mà, để sáng mai em nhắc cậu Bảy với má luôn, nếu có đi thì đi chung. Má vẫn lên chùa vào ngày rằm và mùng một, chưa bỏ sót bao giờ.

 Cả nhà tắt đèn đi ngủ, ngoài sân ánh trăng ngà đêm mười bốn bao phủ cả không gian, ánh trăng trùm lên sơn hà vạn vật, người và muôn loài chìm vào trong giấc ngủ êm đềm trong không khí thanh bình.

 Trong lúc người ta ngủ hay thức dòng đời như dòng sông vẫn trôi mãi không ngừng nghỉ bao giờ, dòng thời gian vô tình như nước chảy mây bay, dòng thiên nhiên thay đổi biến hoại liên miên, dòng tử sanh vẫn tất bật sanh diệt trong mỗi sát na. Xóm chợ ngày nào giờ trở thành một thị trấn nhỏ nhưng khá sầm uất, mua bán rộn ràng. Thằng Tí ngày xưa giờ đã là ba của hai thằng Tí, Tèo mới. Ba má của thằng Tí trước thì giờ đã là ông bà nội ở vào cái tuổi “ Cổ lai hy” rồi! Thằng Tí cũng đã là dân thành đô hơn hai mươi mấy năm trời, nó xa cái xóm chợ kể từ khi lên thành trọ học. 

 Đêm thành đô lặng lẽ im lìm chi lạ, nhiều lúc cứ ngỡ như thành phố ma trong phim “ Walking Dead”. Thành đô bị phong thành đã mấy tháng qua. Dân chúngđiêu đứng, mọi hoạt động kinh tế, xã hội đều dừng lại hết, cuộc sống càng lúc càng túng thiếu. Tình hình như thế này thì trung thu năm nay coi như tiêu. Người lớn thì không nói gì chỉ tội tụi nhóc con không có được cái vui của tuổi thơ. Ti vi đưa tin người nhiễm bệnh, người chết vẫn tăng chứ chưa thấy giảm dù đó là con số không thật. Thành đô vẫn phong tỏa rất ngặt nghèo, nhân viên hành xử vô lý và máy móc như robot, việc sống chết bây giờ quả thật vô thường thấy rõ. Nhiều người mới hôm qua còn đó, vậy mà hôm nay bị cách ly và vài ngày sau lại thấy về trong cái hũ sành đựng nhúm tro. Anh Tí thấy cũng nản và sợ lắm chứ, nhưng vẫn phải hy vọng mà sống, hy vọng dịch bệnh qua nhanh để cuộc sống trở lại bình thường. Anh Tí nói với vợ:

- Tội mấy đứa nhỏ, không có được cái khung cảnh trăng trung thu thanh bình như tụi mình ngày xưa ở dưới quê. Con nít thành đô đâu có biết cái thú chạy theo đoàn lân để nghe trống và xem múa lân. Thành đô cũng có những đoàn lân sư rồng nhưng đó là việc kinh doanh chuyên nghiệp, họ chỉ múa theo hợp đồng làm ăn khai trường mở tiệm hoặc theo những thỏa thuận, giá cả từ vài chục triệu đến trăm triệu như chơi. Thành đô khôing có những đoàn lân tự làm tự diễn và múa một cách đầy hứng khởi, đầy máu văn nghệ như dưới quê những ngày xưa.

 Thành đô đêm nay trăng sáng vằng vặc, ánh trăng rơi trên những mái nhà bê tông xám xịt, ánh trăng chưa kịp rơi xuống mặt đường thì đã tan biến vào ánh đèn đường. 


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 09/2021

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chị nhớ lại, vào một buổi sáng ngày cuối tháng 1 năm 1973, khi Chị đi lấy bản tin ở bên Macv về cho AP, chị thấy sao hôm nay văn phòng đông thế. Ký giả của AP và cả của NBC News bên cạnh cũng chạy qua chạy lại, Chị nghe ông chánh văn phòng nói: Viêt Nam sắp ngưng bắn rồi, sắp hòa bình rồi…” Văn phòng Associated Press xôn xao, từ ông chánh văn phòng đến các ký giả, nhân viên của AP đều hứng khởi với cái tin “Nóng bỏng” này. Chị thấy các phóng viên của các hãng thông tấn, hãng truyền hình ngoại quốc chạy hối hả sang nhau và chạy qua cả đài phát thanh Quân Đội Việt Nam để cập nhật tin tức viết bài…
Chị đi bằng xe hàng. Là dân Đà Lạt gốc Huế nên chị gọi xe đò là “xe hàng”. Đi xe hàng, tức là xe đò, là xe chở người và cả hàng chứ không chở riêng hàng. Tiếng Việt hay như vậy đó! Đến Gò Công rồi đi xe lam vào Đồng Nguơn. Ấp Đồng Nguơn. Không phải đây là lần đầu tiên chị được thấy cảnh đồng quê. Đồng quê miền nam hầu như đâu đâu cũng giống nhau. Nhưng có đi nhiều mới thấy mỗi nơi có một chút khác. Phải thế không? Hay chính là cảm giác của chị mỗi lần một khác?
Tôi ước mơ có một ngày nào đó, khi thanh bình thật sự trở về trên nước VN, khi chính thể CS hoàn toàn tan rã, khi con người công chính trở lại làm nền tảng trong xã hội mới, chúng ta sẽ trở về, những ngưới bạn từ thời xa xưa, cùng nhau làm lại một bữa tiệc Tất Niên, mời vong linh các thầy, các bạn, các anh em đồng đội đã chết trong khói lửa chinh chiến, trong các biến cố tang thương của đất nước, trong các trại tù, trên biển…cùng nhập tiệc. Kẻ đang sống cùng người thiên cổ bên cạnh nhau hoài niệm đến một miền thùy dương ngọt ngào nhân tính, một ngôi trường thân yêu giàu truyền thống giáo dục và y đức, một thành phố mến yêu thơ mộng. Để nghe những người quá cố tâm sự về cái chết oan khiên của mình. Được như vậy, hương hồn các vị đó sẽ sớm được siêu thoát và vĩnh viễn an nghỉ chốn nghìn thu. Và chúng ta đây giảm khắc khoải đau thương…
Tôi đã có bốn cái Tết trong trại Panatnikhom và Sikiew, Thailand. Tết đầu tiên thật nhiều kỷ niệm và bất ngờ, vì lúc đó chúng tôi vừa nhập trại trong khi còn hơn một tuần nữa là Tết. Tôi và ba cô bạn đi chung chưa kịp gửi thư cho thân nhân ở nước ngoài để ca bài ca “xin tiền”. Ai lo bận bịu đón Tết thì lo, còn chúng tôi thì lo đi mượn tiền để mua vài vật dụng cần thiết như tấm trải nhựa, tre nứa, dây nilon để làm “nhà” (phải “an cư” mới “lập nghiệp” tỵ nạn được chớ).Khoảng một tuần trước Tết, có một nhóm mấy thanh niên đến thăm vì nghe nói chúng tôi là dân Gò Vấp, nên muốn nhận “đồng hương đồng khói”. Họ là những người trẻ như chúng tôi, nên câu chuyện mau chóng trở nên thân mật và rôm rả
Hỏi thăm ông Hai bán hoa lay-ơn gốc Bình Kiến, nhiều người ngơ ngác hỏi nhau. Tôi lại rảo qua thêm mấy vòng chợ hoa, cũng vừa đi tìm ông Hai, cũng vừa ngắm hoa và ngắm những chậu bonsai bày bán cuối năm, cũng tìm lại mình của gần 20 năm trước, năm nào cũng cứ vào những ngày này, tôi theo ba tôi hóng gió đón sương không hề chợp mắt cùng gian hàng cây kiểng rất bề thế của ba ở đây.
Có lẽ những rộn ràng, hân hoan nhất trong năm không phải là "ba ngày tết", mà là những ngày cận tết. Bắt đầu vào ngày 23 tháng chạp, tối đưa ông Táo về trời. Tất cả mọi sinh hoạt đều hướng về việc chuẩn bị để đón một mùa xuân mới, chào đón nguyên đán và mấy ngày xuân trước mặt. Lúc nhỏ là mùi vải thơm của bộ đồ mới, mùi gạo nếp ngâm cho nồi bánh và hương thơm ngào ngạt cho sàng phơi mứt dừa, mứt bí, mứt gừng ngoài sân. Những đêm ngủ gà ngủ gật ngồi canh bên nồi bánh tét cùng với má, với gia đình xúm quanh. Mùi bếp lửa, mùi khói hương, mùi áo mới lan tỏa của tuổi thơ ngan ngát những ngày xa...
Người ta được nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện kể. Chú bé cháu của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.
Lóng rày tôi hay tẩn mẩn viết về những hồi tưởng tuổi thơ, nhất là những côn trùng ngày xa xưa đó như chuồn chuồn, bươm bướm, ve sầu, dế mèn…Nhiều lúc ngồi nghĩ lẩn thẩn: tại sao vậy? Chắc đó là tâm trạng của người tuổi sắp hết đếm số, tiếc nuối những khi còn cắp sách tới trường. Cắp sách tới trường không phải là chuyện vui nhưng tuổi học trò thì vui thật. Lúc nào, khi nào, chỗ nào cũng toàn thấy chuyện vui chơi. Bạn chơi là người nhưng nhiều lúc là những côn trùng quanh quẩn bên người. Một ông bạn mới gặp nhướng mắt hỏi tôi viết về những bạn chơi nhiều hơn hai chân nhưng chưa thấy nhắc tới bạn của ông ấy. Đó là bọ ngựa. Ông này thuộc loại rắn mắt. Tôi không chung tuổi thơ với ông nhưng chắc ông cũng thuộc loại phá làng phá xóm. Ông kể chuyện ăn me chua trước mấy ông lính thổi kèn trong hàng ngũ khiến mấy ông thợ kèn này chảy nước miếng thổi không được. Tôi thuộc loại hiền nên không có bạn không hiền như bọ ngựa. Ông ta thì khoái bọ ngựa.
“Mày có vợ hồi nào vậy?” chưa kịp chào, mẹ đã ném ra câu hỏi bất ngờ. Tôi lặng thinh. Cục nghẹn trong cổ họng. Tiếng mẹ đã khàn nhưng nghe vẫn quen, vẫn gần gũi, nhưng đặm chút ngạc nhiên và thấp thoáng chút phiền muộn. Hệt như lần hỏi tôi mười mấy năm trước rằng Sao con trốn học. Đường dây điện thoại chợt kêu ù ù, như thể có máy bay hay xe vận tải cơ giới hạng nặng chạy qua chỗ mẹ đứng. Cũng có thể tại tai tôi ù. Tôi cũng không chắc lắm. Giọng nói mẹ chìm vào khối tạp âm hỗn độn. Mẹ lặp lại câu hỏi trong tiếng động cơ rì rầm. Rồi tất cả im vắng bất ngờ. “Hở con?” Mẹ nói.
Bê, con trai của Mẹ, đã theo Mẹ đến giảng đường từ thuở còn trong bụng Mẹ. Suốt thời gian đại học của Mẹ, Bê có nhiều đóng góp khác nhau theo từng thời kỳ. Khi Mẹ làm bài kiểm tra môn Đầu Tư và Tài Chính trong lục cá nguyệt đầu tiên, Bê mới ba tháng tuổi. Mẹ nhẩm tính, bài thi một tiếng rưỡi, đi về từ nhà đến trường thêm một tiếng rưỡi. Như vậy, Bê phải xa Mẹ ít nhất ba tiếng đồng hồ. Mẹ biết tính Bê, mỗi hai tiếng đồng hồ Bê oe oe đòi bú sữa Mẹ. Bê xấu đói lắm, đòi mà không được, Bê nhăn nhó um sùm. Ngày hôm đó, dì Thành đến giữ Bê. Dì Thành rất hồi hộp. Dì chưa có em bé, chẳng biết phải làm sao cho đúng ý Bê. Mẹ thi xong, phóng ra xe về nhà. Mẹ bắt đầu sốt ruột. Mẹ xa Bê đã hơn ba tiếng đồng hồ. Giờ này Bê chắc Bê đã thức giấc. Hy vọng Bê chịu khó nhâm nhi món trà thảo dược cho trẻ sơ sinh trong khi chờ Mẹ về. Thời đó chưa có điện thoại di động. Bởi vậy, có lo cũng để bụng, chứ Mẹ chẳng biết làm sao. Mẹ ba chân bốn cẳng chạy ba tầng lầu. Vừa đến cửa đã nghe tiếng Bê khóc ngằn ngặt.
Khi chơi những bản nhạc hay, Khang khóc theo giai điệu. Mước mắt chảy, tay kéo tình xuống lên, thân hình diệu dẻo theo cảm hứng. gần như mê cuồng, không biết mình là ai. Tôi cảm nhận được cái hay xuất thần nhưng không hiểu. Khang nói: -- “Cậu Út biết không, cái hay của âm nhạc làm cho lòng sung sướng nhưng cái đẹp của âm nhạc làm cho hồn cảm động. Khi món quà quá lớn, quá sức yêu, không thể cười, chỉ có thể khóc.” Tôi nghĩ, những lúc như vậy, Khang không chơi đàn, mà múa với hồn oan.
Tôi làm việc giữ xe cho một casino ở ngoại ô Toronto, gọi là parking attendant. Đó là nghề mà thanh niên ít chịu làm, phần vì lương thấp, mức tối thiểu, hồi đó 5 đồng một giờ, nhưng lý do chính là vì nó buồn. Bãi đậu xe nằm dưới hầm tối, không nhìn thấy người qua lại, nếu ở ngoài trời cũng sau lưng nhà cao tầng. Không ai làm chỗ đậu xe ở khung cảnh xinh đẹp, nơi ấy dành cho hàng quán. Đi học ban ngày, tôi làm thêm ban đêm là việc thích hợp, có thể thỉnh thoảng ngồi học bài. Nhân viên trong phiên gác trước tôi là cô gái bằng tuổi hoặc cùng lắm lớn hơn một hai tuổi, nhưng không hiểu sao cô vẫn có thói quen gọi tôi là em và xưng chị.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.