Hôm nay,  

Đã Hai Mươi Năm…

27/09/202114:38:00(Xem: 4097)

Sau bài “New York, Một Năm Sau” viết về chuyến đi New York kỳ rồi gởi ra được vài hôm, nhận được email của một người bạn học cùng trường nhưng chưa bao giờ gặp mặt. Anh nói có đọc bài viết, muốn chỉ cho mình biết mấy lỗi chính tả cần sửa nhưng cứ ngần ngại bởi anh muốn mình “nghĩ tốt cho tôi mà không cho tôi khó tính”. Anh đọc rất kỹ, ghi xuống những chỗ sai sót nằm ở trang nào, dòng nào. Làm sao mà không nghĩ tốt cho một người đọc bài mình viết, rồi chân tình chỉ cho mình biết những chỗ sai để sửa chữa, để học hỏi thêm, nhất là những chỗ mà chính mình cũng biết là khiếm khuyết. Vì là người Huế, nói nặng nề, mà lại chỉ muốn viết như nói nên chỗ nào cũng chỉ thấy toàn là dấu nặng với dấu hỏi. Trả lời là sẽ sửa ngay những chỗ anh chỉ, bây giờ đã trễ rồi nhưng sẽ khá hơn cho những lần sau. Nói thêm với anh là mình thường nhờ một người bạn tài giỏi chữ nghĩa coi lại trước khi gởi đi, nhưng lần nầy người bạn đi xa, không chờ được, mới ra nông nỗi, nhưng từ đây thì có thêm một người giúp.   

Đi làm “sở Mỹ” cũng thế thôi, khi phải viết email hơi dài dòng rắc rối gởi ra cho cả công ty mấy trăm người là luôn luôn nhờ vài người sẽ nhận email đọc trước xem có sai sót chi không, có make sense không. Bởi vì viết thì viết gì và viết cho ai?

Đã từ lâu, thử thách và niềm vui lớn lao nhất là khá hơn bản thân của chính mình ngày hôm qua. Chuyện gì mình làm cũng thấy khiếm khuyết nên chỉ ao ước được còn trí tuệ, dành thêm thời giờ, còn sức khỏe, phương tiện… để học, học và học… Vì thế mà làm sao không cám ơn, không nghĩ tốt cho những người chân tình giúp mình tốt hơn.

**


New York đang hồi sinh. Những cửa hàng, tiệm ăn, cơ sở thương mại tồn tại qua cơn dịch đã bắt đầu mở cửa lại.  Nhưng các tiệm ăn vẫn còn e dè đòi khách phải trưng bằng chứng đã chích hai mũi
vaccine mới được ngồi bên trong, còn không phải ngồi ngoài. Tiền thuê nhà tăng vọt vì nhiều người đã lục tục trở về. Không còn mấy ai quan tâm tới ông Thống Đốc Cuomo, người được giải thưởng International Emmy vì đã “masterful” trên TV hằng ngày nói về tình hình COVID ở New York, vừa phải từ chức vì bị tố cáo xâm phạm tình dục. Việc nào ra việc đó!

blank


Construction
khắp mọi nơi.  Vài tháng trở lại đã nghe có công trình mới vừa mở cửa. Lần nầy là Little Island Park, nằm trên mé sông Hudson, nghe đâu tốn đến hơn 260 triệu đô-la để xây cất. Góc bên trái là một sân khấu nhỏ cho những buổi trình diễn ca nhạc bỏ túi. Bên phải là sân khấu chính, có những đêm thứ sáu đọc thơ.

 
blank

“Ấn tượng”, hiện đại, mới mẻ… nhưng không có cái “duyên dáng”, “trưởng thành”, “mượt mà” của Central Park. Cần thời gian!

 
blank


Buổi sáng sớm đi bộ ra Seaport dưới chân cầu Brooklyn. Mùi thơm của cà-phê từ mỗi góc đường nơi những quán cà-phê đã bật đèn mở cửa, có nơi lại còn thoảng mùi bánh mới nướng. Nhớ mùi sả, ruốc, mỡ bò… ngưởi được từ khoảng xa cả mấy quãng đường từ những nồi bún đang nấu khi trời còn mờ tối ở đường Lý Thường Kiệt ngoài Huế.

blankblank


Mua một ly cà-phê rồi tìm một chỗ trống trên những băng ghế cao hướng ra bờ sông, nhìn nước chảy mây trôi. 

Chung quanh đã có vài ba người ngồi một mình đọc sách, hay nhìn mấy chiếc tàu qua về hai phía sông. Vô cùng bình yên và thanh thản. Có người bạn Huế hay nói, ăn chi cũng đuợc, ở mô cũng được, nhưng cho tui xin chút nước chút sông.  Mình thì còn xin thêm vài ba cây cầu. Thử tưởng tượng Paris mà không có sông Seine, Huế mà không có sông Hương!

**


Lấy
subway đi chợ Tàu. Khác với New York sống động, không ngừng đổi mới, chợ Tàu ở đây ngày càng ảm đạm, “xuống cấp. Ngoài những tiệm cà-phê, bánh ngọt mà quãng đường nào cũng chen chúc vài ba cái, hay mấy siêu thị, là mở cửa sớm, phố xá mệt mỏi đóng cửa tới gần trưa. Những người dựa cột đèn bán đồ giả cho du khách cũng thưa thớt. Tiệm dumpling mà mình cho là ngon nhất thế giới cho đến khi Din Tai Fung tìm đến Orange County đã vĩnh viễn đóng cửa. Những tiệm mì, cơm, gà, vịt, heo quay nổi tiếng một thời nay vô cùng thất vọng. May mà tìm ra một tiệm Popeye Chicken gần chỗ xuống subway, thế là từ nay có thể ăn trưa bằng một cái fried chicken sandwich mà mấy ông bà fast food critic cho là the best thay vì để bụng trống về nhà


Đi bộ về nhà, chừng hơn ba mươi phút, ngang qua mấy tòa nhà quanh khu vực World Trade Center. Thấy có chỗ đang dựng rạp, sắp bàn ghế, ghé lại hỏi họ đang làm gì. Họ nói chuẩn bị cho buổi tưởng niệm 20 năm ngày 11 tháng 9 vào ngày mai. Ngày mai, mười một tháng chín. Đã hai mươi năm!!!

Ai mà quên được buổi sáng kinh hoàng hôm đó! Ông chủ công ty tụ tập nhân viên trong phòng họp lớn cùng nhau cầu nguyện. Ông cho những cửa hàng có gốc gác ở New York được đóng cửa, rồi đóng luôn cửa văn phòng để, như ông muốn, ai theo Chúa thì đi nhà thờ, ai tin Phật thì đi chùa, tiếp tục cầu nguyện cho những nạn nhân và, quan trọng không kém, reflect bản thân. Time to reflect!

Chiều hôm đó có email của người bạn ở New York khuyên bạn bè nên chuẩn bị mua stock, cơ hội bằng vàng…


blank

9.11 Memorial


Nơi hai tòa nhà sụp đổ nay là hai thác nước nằm sâu dưới lòng đất bao quanh bởi bốn bức tường thấp bằng granite đen, khắc tên của gần ba ngàn nạn nhân, đôi lúc có cành cẩm chướng trắng gắn cạnh bên. Vòng ngoài là những hàng cây xanh mướt, xa hơn là các tòa cao ốc. 


Chỉ có thế thôi! Không “tượng đài”, không khẩu hiệu, không cờ quạt, rất đơn giản và vô cùng tĩnh lặng. Không có cái vẻ âm u ghê rợn của một nghĩa trang nhỏ thường thấy, đừng nói chi tới có cả gần ba ngàn người chết ngay ở chỗ nầy. Sự khác biệt văn hóa biểu lộ rõ ràng ở đây! Cho đến bây giờ đi ngang qua vẫn có cái cảm giác ngậm ngùi. Vẫn muốn đến gần mấy bức tường nhìn xuống những dòng nước chảy, đọc năm bảy tên, tưởng như mình có quen biết, thân thiết với họ. 

Hôm sau, ghé lại chỗ đang tưởng niệm hai mươi năm ngày 11 tháng 9. Chỉ chừng hơn trăm người ngồi, đứng trước một khán đài nhỏ, có cái màn ảnh chạy tên nạn nhân và một người đọc lên tên của họ. Đường phố vẫn bình thường. Không có cả trăm cảnh sát đầy súng ống đầy đủ, lớp trong lớp ngoài phong tỏa toàn khu vực, như người ta vẫn thường làm để “bảo vệ” cho nhưng phiên tòa xử “công khai” những người đấu tranh đòi hỏi tiến bộ cho đất nước, cho dân bớt khổ… Những cột đèn đường quanh đây treo trên cao tấm vải xám với mấy hàng chữ trắng phải để ý mới thấy “NYC 20 YEARS 9.11.01 NEVER FORGET”.  Không thấy có lá cờ đỏ nào để tôi đi không thấy phố thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên nền cờ đỏ. Không có bài diễn văn. Không có lời kêu gọi gợi lên lòng căm thù, chỉ tên thù địch để “ăn gan, uống máu”, để Giết, giết na, bàn tay không phút ngh (TH). 

Đây phải chăng là sức mạnh thật sự, như Leylah Annie Fernandez, cô gái Canada mười chín tuổi, nói trong lúc nhận giải thứ nhì US Open. Không bày tỏ sự thất vọng, trách móc, chua chát…vì đã thua, mà nhìn về phía trước: “tôi hy vọng là sẽ mạnh mẽ như New York trong hai mươi năm qua”.   

      

**


Chuyến nầy dự định là sẽ ở mười ngày, nhưng vì có chút công chuyện mà phải đổi vé về sớm mấy hôm, tốn hơn trăm bạc. Hôm đi về, nói với mọi người trong nhà thôi chia tay trước cửa được rồi, vì không muốn họ thấy mình kéo
vali đi về phía subway. Nhưng rồi mọi người cũng đi theo ra ngoài đường chính, người con lại vẫy một chiếc taxi, nên phải leo lên. Thế là, thêm một lần nữa, mộng không thành!

Theo đúng như sách vở đã dạy, mình mở đầu câu chuyện bốn mươi lăm phút với người tài xế taxi gốc Haiti sáu mươi ba tuổi, có bốn con, năm cháu, bằng tin thời tiết, để thăm dò, rồi qua chuyện thể thao. Vì anh nầy thích “bóng đá” nên cũng có nhiều chuyện để nói với nhau. Chuyện Messi rời Barcelona đầu quân cho Paris St. Germain. Ai mà đá nổi với đội banh đã có hai tiền đạo hay nhất thế giới, NeymarMbappé, nay lại thêm Messi! Qua chuyện Welcome Home concert ở Central Park hôm tháng tám mà mình tiếc không nghe được vì lúc đó đã về lại California. Buổi concert phải ngừng lại nửa chừng vì sấm sét…Có người viết bày tỏ lòng cảm ơn thành phố đã tổ chức buổi concert nầy cho mọi người lên tinh thần dù chỉ được một nửa, nhưng không thiếu người than phiền vì buổi concert chỉ có một nửa. Ly rượu nầy nửa đầy hay nửa vơi? 
 
blank


Câu chuyện rồi dẫn dến những khó khăn mà anh tài xế
taxi và gia đình phải chịu đựng trong hơn năm rưỡi qua. Uber, Lyft rồi tới COVID, trên đe dưới búa. Nhưng khó khăn của anh cũng đã sắp qua, còn những người lao động nghèo nàn ở Việt Nam thế nào từ ngày phong tỏa? Bỏ làng mạc lên thành phố kiếm sống, nay dìu dắt nhau về lại nơi xưa. Có người đói lả trên đường đi về cả trăm cây số! 

Trước khi dừng xe thả mình xuống trước terminal, anh tài xế triết lý anh mong COVID-19 nầy là một wakeup call, và 20 năm ngày 11 tháng 9 là một good reminder để mọi người nhìn lại đời mình, hiểu điều gì là quan trọng nhất và phải nên sống như thế nào!

Sống thế nào và sống với nhau ra sao, không dễ.  Cả một quá trình tập luyện kiên trì… Ai cũng biết giữ cho “thân hình thon gọn” vừa “đẹp” vừa tốt cho sức khỏe, nhưng mấy ai có thể ăn uống kiêng khem, vận động hằng ngày năm nầy qua năm khác. Hay bước tới trước một bước thì bước lùi sau hai bước!

Nguyen Q


**


Trả lời
email cho một người bạn học ở Sài-Gòn, luôn thể nói với anh là mình nôn nóng sớm yên ổn để về Việt-Nam, đi từ Bắc vô Nam, tận hang cùng ngõ hẻm. Để thấy, nghe, viết và ghi lại cái đẹp của đất nước mình. 

Đất nước mình cực kỳ xinh đẹp, không thấy hết sẽ hối tiếc về sau…   
 

blankSapa


Nguyen Q

Tháng 9, 2021


 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.