Hôm nay,  

Ông Thầy

27/11/202113:26:00(Xem: 3932)

 


 Đêm trường sơn tối mịt mùng, cái tối dường như đặc quánh lại, không một tí gió thoảng, không một đọt lá lay, không cả tiếng nỉ non của côn trùng. Thời gian cô đọng đến nghẹt thở. Bầu trời đêm cao xa thăm thẳm tưởng chừng thông đến cả vũ trụ vô biên, nền trời đen thẫm hòa điệu cùng bóng đêm, sao trời mờ mịt. Duy ở phương nam xa xôi lại lấp lánh một ngôi sao lạ thường, một ngôi sao cô độc xuất hiện trên nền thẫm đen của bầu trời.

 Thiền am Bờ Này ẩn mình dưới tán thông già, nếu người tinh mắt sẽ thấy bóng thiền am tựa như tảng đá lớn hay là thạch trụ giữa ngàn thông. Lúc này trong am vẫn còn leo lét ánh đèn, đêm càng về khuya, không khí tịch mịch thâm u càng sâu thêm. Ông thầy ngồi yên đấy, thân hình bất động, thỉnh thoảng nhẹ tay lật trang sách khác, ngòi bút vẫn chạy đều đều trên trang giấy, ánh đèn soi bóng ông thầy trên vách như người khổng lồ lặng yên, chỉ cái bóng của đầu quản bút thì nhấp nhô như biểu đồ điện tâm. Đêm trường sơn người và vật hóa thạch cả, chỉ còn dòng tư tưởng của ông thầy trào dâng lênh láng khắp không gian là chưa bị hóa đá mà thôi.

 Mà nào chỉ đêm nay, đã ba ngàn đêm rồi, kể từ ngày ông thầy về trú ở am này. Am Bờ Này cũng vắng vẻ bình lặng như chủ, chẳng thấy người lai vãng hay khách viếng thăm, họa hoằn lắm mới có một vài vị tăng hay tục từ phương xa ghé đến. Dân chúng quanh vùng cũng không thấy đến am như đến những ngôi chùa khác, thậm chí nhiều người cũng chẳng biết là ở vùng mình có một cái am như thế, dĩ nhiên cũng chẳng biết có ông thầy hay pháp danh của ông thầy. Một vài người ở xóm núi có bảo nhau họ thấy một ông thầy gầy gò thường mặc áo vạt hò màu nâu hay màu lam chi đó, có kẻ còn tỏ ra rành việc xì xầm:” Ông thầy bị đi tù vì làm việc quốc sự” từ đó mọi người càng thờ ơ hơn, họ sợ liên lụy đến mình. Dân cư không biết đã đành, ngay cả những ông tăng ở mấy chùa của xứ ngàn thông cũng lơ là, có vị biết nhưng né, cũng có nhiều vị chẳng biết có một ông thầy như thế. Vì vậy mà ông thầy suốt thời gian dài một bóng trong am giữa đại ngàn. Ông thầy vẫn thản nhiên chẳng động tâm, ngày nào cũng thế, sau thời công phu sáng thì ra vườn chăm luống cà vừa trổ bông, vồng cải chớm vàng, ông thầy cuốc đất làm lụng như một nông dân chính hiệu. Cũng có khi ông thầy ngồi tấu những khúc dương cầm của Bach, Beethoven, Mozart… Ban đêm ông thầy đọc sách, dịch kinh, thời khóa dường như không có chỗ trống để biết mình đang cô tịch. Ngày đêm sáu thời tinh tấn không ngừng nghỉ.

 Đêm nay cũng thế, ông thầy cần mẫn, cẩn trọng dịch từng câu chữ, tra tìm nghĩa từng từ, so sánh đối chiếu từ bản Hán với các bản Sanskrit, Pali… Ông thầy gầy gò như lau sậy mà lại có sức dẻo dai như tùng bách ngoài sân. Đồng hồ báo thức đã canh ba, không thấy ông thầy tỏ ra mệt mỏi hay muốn đi nằm, toàn tâm trí dồn hết vào trang kinh.

 Đêm trường sơn đen kịt, cái lạnh từ ngoài và trong am không có giới tuyến nào, cái lạnh và màn đêm hòa vào nhau như một, dù rằng thực thể vẫn là hai, cả trong lẫn ngoài vốn là hai nhưng giờ cũng chỉ là một, không làm sao phân biệt cho ra đâu là một với hai.  Chợt từ trên không trung rơi rơi xuống những đốm sáng, ban đầu lác đác thưa thớt nhưng dần dần về sau nhiều hơn, một lát nữa thì dày đặc như sao sa mưa băng. Vô số những đốm sáng lung linh hình dáng hoa mạn thù sa, mạn đà la, ma ha mạn thù sa, ma ha mạn đà la… Một khoảng không quanh am Bờ Này sáng rực rỡ lung linh đầy ảo diệu trong cơn mưa hoa. Từ bốn phương xuất hiện bốn vị thiên oai phong lẫm liệt sừng sững giữa không trung, bên trên vô số các thiên thần cùng Càn Thát Bà vây quanh. Dưới đất không biết từ đâu các vị địa thần, sơn thần, lâm thần cùng các lòai khẩn na la, ca lâu la, ma hầu la già… xuất hiện nhiều không đếm xuể. Bọn họ lấy làm lạ, ngơ ngác nhìn nhau, tất cả vừa cung kính ngắm nhìn mưa hoa, vừa dò hỏi nhau sự cớ gì. Âm thanh vi diệu vọng từ hư không vọng xuống, các vị Càn thát Bà tấu khúc cúng dường.

 Một vị địa thần bước ra cung kính chắp tay hướng về  phương đông:

- Thưa Thiên Vương Trì Quốc, duyên cớ gì mà đêm nay chư thiên rải hoa cúng dường xuống am Bờ Này? Xin ngài thương tình giải nghi cho chúng tôi!

 Trì Quốc Thiên Vương ôm cây đàn tỳ bà khẽ vuốt nhẹ, dòng âm thanh vi diệu thánh thót làm cho bộ chúng an vui và lòng hướng về Phật, đoạn thiên vương từ tốn:

- Ông là chủ cuộc đất này, lẽ nào ông không biết vì sao ư?

- Thưa thiên vương, tôi biết chứ, từ khi ông thầy về trụ ở đây đã khiến cho mọi sự đổi thay. Tôi và chư vị thuộc hạ hết lòng hộ vệ ông thầy. Tôi cũng nghĩ là mưa hoa cúng dường ông thầy nhưng tôi muốn thưa hỏi để tạo cơ hội cho những kẻ phàm trần được biết duyên cớ.

- Ông quả là một vị địa thần tốt, đúng như thế, chư thiên rải hoa cúng dường và tán thán ông thầy trí huệ cao thâm, giới đức hương bay xa, tinh thần vô úy dấn thân hành hoạt. Ông thầy là hy vọng của xứ sở này!

- Thưa thiên vương, xứ sở này hết chinh chiến đã lâu, tiếng là hòa bình nhưng lòng người vẫn bất hòa, bất bình. Quan lại nhũng nhiễu, dân oan ta thán, xã hội kỷ cương không ra sao. Ngoài đời thì những kẻ có tiền, có quyền mặc sức tác oai tác quái. Trong đạo nhiều vị tuy khoác cà sa nhưng làm việc ma, đem thân cho thế quyền sai xử, xu phụ quyền thế vì danh văn lợi dưỡng. Riêng ông thầy thì không, bởi vậy mà trở thành cái gai trong mắt bọn họ. Thế quyền và những pháp lữ hư ấy ra sức cô lập và mạ lị ông thầy. Thế quyền đã chụp ngục tù hình án lên đầu ông thầy, giờ ông thầy về ẩn ở am này. Địa thần tôi ngày đêm ra sức hộ trì ông thầy và những việc ông thầy làm.

 Trì Quốc Thiên Vương tán thán:

- Lành thay, lành thay, địa thần các ông làm rất tốt, công đức vô lượng. Tôi cũng dốc sức hộ trì ông thầy cùng quốc độ này.

 Trì Quốc Thiên Vương dứt lời thì trên hư không một đợt mưa hoa mạn đà la, mạn thù sa mới rơi xuống sáng lấp lánh trên mái ngói rêu phong của am. Một vị sơn thần chắp tay cung kính hướng về ngài Tăng Trưởng thiên Vương ở phương nam:

- Thưa ngài, đêm nay chư thiên rải hoa cúng dường ông thầy hay có còn ai khác nữa không?

 Tăng Trưởng Thiên Vương tay cầm bảo kiếm nhưng hướng lưỡi kiếm vào trong, ngài sợ sẽ làm đau những vị hiền chúng, vương bảo:

- Ông thầy là nhân duyên chính, mưa hoa cúng dường ông thầy nhưng ánh sáng và hương thơm đâu chỉ mỗi ông thầy thọ, tất cả những vị đồng tâm, đồng giải, đồng hành như ông thầy cũng đồng thọ nhận. Giáo hội dân lập là để hoằng dương Phật pháp, điều hành tăng sự, tuy  bị thế quyền phế đi để lập hội mới hòng quản lý mọi việc theo ý đồ chính trị. Ông thầy và các pháp lữ đồng tâm can đảm đứng riêng, quyết chí phục hoạt giáo hội dân. Ông thầy là bậc đại trí, đại bi, bố thí vô úy.

 Sơn thần chắp tay thưa:

- Chúng tôi có nghe qua bức tâm thư ông thầy gởi hàng hậu học, thật thống thiết, thật từ tâm, mỗi chữ đều thể hiện tấm lòng của ông thầy đối với cơ nghiệp của Như Lai nói chung, với tiền đồ Phật giáo của xứ sở này nói riêng. Chúng tôi kính phục ông thầy lắm, cùng với địa thần và các thiện thần, chúng tôi ngày đêm không rời nửa bước chân để hộ vệ ông thầy.

- Lành thay, lành thay, đức của ông thầy mà cũng là phước của các ông. Dù biết ông thầy là bậc tòng lâm thạch trụ nhưng hàng chư thiên chúng tôi cũng mong ông thầy vững tâm, bền chí trong thời buổi pháp nhược ma cường- Tăng Trưởng Thiên Vương tán thán ông thầy không ngớt lời.

 Một vị hải thần đến sau, nãy giờ lắng nghe, trong lòng chất chứa nhiều tâm sự muốn nói bèn bước ra cung kính chắp tay hướng về bắc phương:

- Thưa ngài Đa Văn Thiên Vương, tôi thường nghe ông thầy thông minh, tài hoa và trí tuệ cao siêu, điều ấy có thật đúng vậy chăng?

 Đa Văn Thiên Vương cầm cây dù vàng, bên mình có con cầy mangut, mỗi khi mangut hả miệng ra thì bao nhiêu châu báu tuôn theo. Thiên vương chống cây dù xuống rồi bảo:

- Ông từ xa đến đây, có lẽ nghe phong thanh chứ chưa biết rõ cũng là lẽ đương nhiên. Tôi nói cho ông biết, ông thầy là một người kỳ tài hiếm thấy, mấy trăm năm chưa dễ có người thứ hai. Ông thầy là bậc pháp khí nối được chư tổ để giữ gìn và phát huy cơ nghiệp của Thế Tôn. Số lượng kinh sách mà ông thầy giảng giải, dịch nghĩa hay viết ra rất nhiều, một người bình thường khó lòng đọc hay hiểu hết được. Ông thầy tinh thông nội điển lẫn ngoại điển, không chỉ kinh sách mà ông thầy còn là một tay diệu thủ, những khúc dương cầm ông thầy tấu lên đến thần Càn Thát Bà cũng phải ngẩn ngơ lắng nghe. Ông thầy là bậc tinh hoa trong đạo ngoài đời của xứ sở này.

 Nghe Đa Văn Thiên Vương tán thán, vị hải thần khâm phục quá đỗi, nét mặt hân hoan rạng rỡ. Vị hải thần cảm thấy hạnh phúc và may mắn khi được chứng kiến chư thiên rải hoa cúng dường trên am của ông thầy. Hải thần nghĩ xứ sở này may mắn có được bậc pháp khí như ông thầy. Hải thần rơi lệ khi được biết ông thầy cũng từng bị hình án ngục tù, lưu đày, ngẫm nghĩ giây lát, hải thần lại thưa hỏi:

- Thưa ngài Đa Văn Thiên Vương, ông thầy là châu báu của xứ sở này, là tăng bảo của tứ chúng nhưng xem ra cả tăng tục ở xứ này không có mấy ai biết đến, việc này nghĩa là sao vậy?

- Ngọc trong đá dễ mấy ai biết, viên bi thủy tinh thì mọi người đều quen, tuy cả hai giống nhau nhưng thực chất khác nhau xa lắm. Ngọc châu đáng gía ngàn lượng vàng còn viên bi thủy tinh chỉ một xu. Ông thầy bị cường quyền lẫn những kẻ đồng đạo nhưng không đồng đức ra sức cô lập, che chắn, phỉ báng… nên ít người biết đến là vậy. Ông thầy thọ ấn truyền thừa nào phải vị ngôi cao, đó chỉ là phương tiện hành hoạt để hoằng dương Phật pháp, điều hành tăng sự, tiếc thay ông thầy lại bị chính những vị đồng hội đồng thuyền cản trở để tranh đoạt ấn, tất cả cũng chỉ vì cái danh hão mà ra. Này hải thần, ông có biết không? Ông thầy còn là một tay làm thơ tuyệt hảo đấy, mặc dù ông thầy không có chủ đích làm thơ. Thơ ông thầy hay đến độ một lão thi sĩ lừng danh và quái dị vào hàng bậc nhất của xứ sở ấy phải thốt lên:” Thưa đại sư, xin đại sư cứ tiếp tục làm thơ...”

 Nghe thế, Hải thần lắc đầu quầy quậy, chép miệng than:

- Ông thầy là bậc tinh hoa, là pháp khí của xứ sở này, vậy mà người bên trong trọn không hay biết, trong khi danh tiếng và đức độ của ông thầy vang khắp bốn bể, thiên hạ bao người quý mến và kính ngưỡng. Xứ sở này quả là bất tường quái dị, mà nào chỉ mỗi ông thầy, tôi thấy những kẻ có tài năng trí lực, có tâm huyết với quốc dân, có lương tri nhân phẩm… đều bị tống giam hoặc bị lưu đầy, còn không nữa thì cũng lưu vong hết cả. Có rất nhiều người tài đi đến xứ khác thì được trọng dụng trong khi xứ sở này lại chối bỏ.

 Đa Văn Thiên Vương nghe thế rơi lệ:

- Những điềm bất tường, những điều quái gở ông có nói hết đêm nay cũng không hết!

 Trong chúng có một vị biên thần, có lẽ ông ấy lần đầu đến đây nên các vị địa thần, sơn thần đều không biết. Ông ấy đến từ vùng biên ngoại cực kỳ xa xôi, theo lời ông ấy thì nhân thấy đêm phương nam chợt sáng lòa vô cùng kỳ ảo nên mới vận thần thông đến để xem vì cớ gì mà trời mưa hoa như thế. Ông đã lắng nghe vấn đáp giữa bách với các thiên vương nên hiểu cớ sự, tuy vậy trong lòng vẫn còn chút hồ nghi, bèn hướng về Quảng Mục Thiên Vương bạch vấn:

- Bạch Quảng Mục Thiên Vương, tôi là biên thần từ xa đến đây, nhân nghe chư thiên tán thán trí huệ và giới đức của ông thầy nên lòng tôi cảm kích vô cùng. Tôi cũng có chút nghi vấn, nếu ông thầy như thế, cớ sao không buông hết xuống, chuyện đời mặc cho bọn người kia tự xử lấy, ông thầy chuyên tu thôi thì sẽ dễ dàng về nước vô sanh hay đến Cực Lạc Tây Phương có phải hay hơn không?

 Quảng Mục Thiên Vương nghiêm nghị nhìn chằm chằm vào bảo tháp mà ngài mang theo, mắt ngài nhìn có thể tiêu diệt cái xấu và cái ác, bởi thế khi với người thiện thì ngài không nhìn họ, e sẽ làm tổn thương, bởi thế Tây Thiên Vương không nhìn vị biên thần:

- Rất hoan hỷ khi biết ông từ biên ngoại xa xôi đến đây, nay nhân lời ông hỏi và cũng vì tất cả chúng ở đây mà  tôi có đôi lời. Ông thầy là bậc xuất chúng vượt qua cái phàm của người đời, giả sứ ông thầy im lặng tu hành thì thế quyền sẽ lập tức phong ông ấy làm pháp chủ ngay, sẽ ban tặng bao nhiêu danh hiệu như: Sư tiến bộ, sư nhân dân, sư ưu tú… và sẽ cung phụng như một ông hoàng, rồi bọn bồi bút sẽ đưa ông thầy lên tận mây xanh. May cho con dân và đạo pháp của xứ này, ông thầy không phải là hạng người như vậy. Ông thầy buông xả tất cả, chỉ duy có mục đích tu hành để liễu sanh thoát tử, chỉ có chí hướng hoằng pháp lợi sanh mà thôi! Sở dĩ ông thầy không thể ngồi yên trong thiền thất mà phải dấn thân hành hoạt là vì lòng đại bi, vì yêu nước thương dân. Kinh Phạm Võng có câu:” Bồ tát gạt lệ xông vào chốn lầm than để cứu dân”. Đúng như thế đấy biên thần ơi! Bồ tát đâu ngự ở nơi chùa to Phật lớn, đền đài lộng lẫy. Bồ tát cũng không ở trong tháp ngà, càng không phải trong những ngôi phạm vũ nguy nga đạt kỷ lục nọ kia. Bồ tát ngay trong đời thường, đồng hành với dân, với những người khốn khổ lầm than. Bồ tát dấn thân vào những vùng oan khiên khổ nạn, thậm chí cả ngục tù. Bồ tát không phải ở những danh xưng đao to búa lớn, những lời xưng tụng bóng bẩy sáo rỗng hay những chức tước phù phiếm. Bồ tát ở những lời thật, hành vi thật cho dù những việc ấy có nguy hại đến mình nhưng miễn là ích người lợi đời. Bồ tát ở chỗ hộ pháp, hộ quốc, hộ dân mà chẳng kể đến sự thiệt thòi cho bản thân mình! Này vị biên thần kia, ông từ xa đến đây nên không biết đấy thôi! Xứ sở này từ xưa đã có truyền thống này rồi. Sa môn, tăng nhân hộ pháp, hộ dân, hộ quốc như các ngài: Pháp Thuận, Vạn Hạnh, Huyền Quang, Tông Diễn… còn nhiều lắm, tôi không thể nào kể hết nội đêm nay. Tôi cũng cho ông biết điều này, gần đây có một gã ất ơ cà lơ phất phơ nào đó của quốc độ Sa Bà đã viết:

 Ông thầy áo vải cơm chay

 Cốc keng chuông mõ tháng ngày kệ kinh

 Dân oan nước loạn mặc tình

 Phật cười uổng cả công trình bấy lâu.

 Ông thấy đấy! Đến một gã vô danh tiểu tốt tầm thường như thế mà còn thấy mấu chốt của vấn đề, tóm lại Bồ tát ắt phải hộ pháp, hộ quốc, hộ dân chứ không phải ở trong tháp ngà bảo bọc của thế quyền. Bồ tát ở trong tháp ngà thế quyền là bồ tát bằng đất qua sông. Sở dĩ ông thầy được cả thế gian biết đến, được người đời tôn kính ngưỡng mộ là do lòng từ bi, trí huệ, bản lãnh, tinh thần vô úy, sự dấn thân hành hoạt… chứ không phải ở ngôi vị hay ở văn khéo thơ hay! 

 Quảng Mục Thiên Vương dứt lời, từ không trung lớp lớp mưa hoa mới rơi xuống, những lớp hoa cũ vừa tan biến là hoa mới lấp vào ngay. Ánh sáng lung linh lấp lánh vô cùng ảo diệu, cả một vùng quang hoa sáng lạn thông suốt từ hư không đến am Bờ Này. Tứ thiên vương, chư thiên, bách thần, hội chúng đều hoan hỷ chiêm ngưỡng cho là việc hiếm có xưa nay.

 Sáng hôm ấy, dân chúng quanh vùng cứ kháo nhau và dò hỏi nhau: “Am ông thầy trên đồi thông có hội hoa đăng đêm qua?”. Có những lời ai đó bác:” Ông thầy lâu nay ẩn cư một mình, có ai lai khứ đâu mà tổ chức hoa đăng?”. Duy có một điều ai ai cũng đồng ý là không hiểu sao quanh am Bờ Này đêm qua rực rỡ sáng lòa như hội hoa đăng. Người này hỏi người kia nhưng chẳng ai biết thật sự đó là sự việc gì. Thiền am vẫn tịch mịch bên đồi thông, ngoài tiếng thông reo vi vu thỉnh thoảng những khúc dương cầm tấu lên hòa cùng. Ông thầy vẫn lặng lẽ như  ngàn thông bên đồi, những lời đồn đại về đêm hoa đăng ở thiền am của ông thầy không có căn cứ gì nhưng vẫn loang đi khắp nơi. Những tay mật vụ lẫn bọn lon ton tép riu được lệnh canh gác ông thầy cũng hoang mang lắm, nhiều kẻ trong bọn chúng cũng thấy đêm hoa đăng ở am ông thầy. Bọn chúng ngỡ ông thầy lén tổ chức hoa đăng hay hội họp chi đấy, tuy nhiên chúng kiểm tra nghiêm ngặt nên không thấy có dấu vết xe đến đi hay người lui tới. Đi dò hỏ quanh vùng thì mọi người cũng chẳng biết chuyện chi, mặc dù nhiều người đều xác nhận đêm ấy quanh am ông thầy sáng rực rỡ lung linh.


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 11/21

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chị nhớ lại, vào một buổi sáng ngày cuối tháng 1 năm 1973, khi Chị đi lấy bản tin ở bên Macv về cho AP, chị thấy sao hôm nay văn phòng đông thế. Ký giả của AP và cả của NBC News bên cạnh cũng chạy qua chạy lại, Chị nghe ông chánh văn phòng nói: Viêt Nam sắp ngưng bắn rồi, sắp hòa bình rồi…” Văn phòng Associated Press xôn xao, từ ông chánh văn phòng đến các ký giả, nhân viên của AP đều hứng khởi với cái tin “Nóng bỏng” này. Chị thấy các phóng viên của các hãng thông tấn, hãng truyền hình ngoại quốc chạy hối hả sang nhau và chạy qua cả đài phát thanh Quân Đội Việt Nam để cập nhật tin tức viết bài…
Chị đi bằng xe hàng. Là dân Đà Lạt gốc Huế nên chị gọi xe đò là “xe hàng”. Đi xe hàng, tức là xe đò, là xe chở người và cả hàng chứ không chở riêng hàng. Tiếng Việt hay như vậy đó! Đến Gò Công rồi đi xe lam vào Đồng Nguơn. Ấp Đồng Nguơn. Không phải đây là lần đầu tiên chị được thấy cảnh đồng quê. Đồng quê miền nam hầu như đâu đâu cũng giống nhau. Nhưng có đi nhiều mới thấy mỗi nơi có một chút khác. Phải thế không? Hay chính là cảm giác của chị mỗi lần một khác?
Tôi ước mơ có một ngày nào đó, khi thanh bình thật sự trở về trên nước VN, khi chính thể CS hoàn toàn tan rã, khi con người công chính trở lại làm nền tảng trong xã hội mới, chúng ta sẽ trở về, những ngưới bạn từ thời xa xưa, cùng nhau làm lại một bữa tiệc Tất Niên, mời vong linh các thầy, các bạn, các anh em đồng đội đã chết trong khói lửa chinh chiến, trong các biến cố tang thương của đất nước, trong các trại tù, trên biển…cùng nhập tiệc. Kẻ đang sống cùng người thiên cổ bên cạnh nhau hoài niệm đến một miền thùy dương ngọt ngào nhân tính, một ngôi trường thân yêu giàu truyền thống giáo dục và y đức, một thành phố mến yêu thơ mộng. Để nghe những người quá cố tâm sự về cái chết oan khiên của mình. Được như vậy, hương hồn các vị đó sẽ sớm được siêu thoát và vĩnh viễn an nghỉ chốn nghìn thu. Và chúng ta đây giảm khắc khoải đau thương…
Tôi đã có bốn cái Tết trong trại Panatnikhom và Sikiew, Thailand. Tết đầu tiên thật nhiều kỷ niệm và bất ngờ, vì lúc đó chúng tôi vừa nhập trại trong khi còn hơn một tuần nữa là Tết. Tôi và ba cô bạn đi chung chưa kịp gửi thư cho thân nhân ở nước ngoài để ca bài ca “xin tiền”. Ai lo bận bịu đón Tết thì lo, còn chúng tôi thì lo đi mượn tiền để mua vài vật dụng cần thiết như tấm trải nhựa, tre nứa, dây nilon để làm “nhà” (phải “an cư” mới “lập nghiệp” tỵ nạn được chớ).Khoảng một tuần trước Tết, có một nhóm mấy thanh niên đến thăm vì nghe nói chúng tôi là dân Gò Vấp, nên muốn nhận “đồng hương đồng khói”. Họ là những người trẻ như chúng tôi, nên câu chuyện mau chóng trở nên thân mật và rôm rả
Hỏi thăm ông Hai bán hoa lay-ơn gốc Bình Kiến, nhiều người ngơ ngác hỏi nhau. Tôi lại rảo qua thêm mấy vòng chợ hoa, cũng vừa đi tìm ông Hai, cũng vừa ngắm hoa và ngắm những chậu bonsai bày bán cuối năm, cũng tìm lại mình của gần 20 năm trước, năm nào cũng cứ vào những ngày này, tôi theo ba tôi hóng gió đón sương không hề chợp mắt cùng gian hàng cây kiểng rất bề thế của ba ở đây.
Có lẽ những rộn ràng, hân hoan nhất trong năm không phải là "ba ngày tết", mà là những ngày cận tết. Bắt đầu vào ngày 23 tháng chạp, tối đưa ông Táo về trời. Tất cả mọi sinh hoạt đều hướng về việc chuẩn bị để đón một mùa xuân mới, chào đón nguyên đán và mấy ngày xuân trước mặt. Lúc nhỏ là mùi vải thơm của bộ đồ mới, mùi gạo nếp ngâm cho nồi bánh và hương thơm ngào ngạt cho sàng phơi mứt dừa, mứt bí, mứt gừng ngoài sân. Những đêm ngủ gà ngủ gật ngồi canh bên nồi bánh tét cùng với má, với gia đình xúm quanh. Mùi bếp lửa, mùi khói hương, mùi áo mới lan tỏa của tuổi thơ ngan ngát những ngày xa...
Người ta được nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện kể. Chú bé cháu của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.
Lóng rày tôi hay tẩn mẩn viết về những hồi tưởng tuổi thơ, nhất là những côn trùng ngày xa xưa đó như chuồn chuồn, bươm bướm, ve sầu, dế mèn…Nhiều lúc ngồi nghĩ lẩn thẩn: tại sao vậy? Chắc đó là tâm trạng của người tuổi sắp hết đếm số, tiếc nuối những khi còn cắp sách tới trường. Cắp sách tới trường không phải là chuyện vui nhưng tuổi học trò thì vui thật. Lúc nào, khi nào, chỗ nào cũng toàn thấy chuyện vui chơi. Bạn chơi là người nhưng nhiều lúc là những côn trùng quanh quẩn bên người. Một ông bạn mới gặp nhướng mắt hỏi tôi viết về những bạn chơi nhiều hơn hai chân nhưng chưa thấy nhắc tới bạn của ông ấy. Đó là bọ ngựa. Ông này thuộc loại rắn mắt. Tôi không chung tuổi thơ với ông nhưng chắc ông cũng thuộc loại phá làng phá xóm. Ông kể chuyện ăn me chua trước mấy ông lính thổi kèn trong hàng ngũ khiến mấy ông thợ kèn này chảy nước miếng thổi không được. Tôi thuộc loại hiền nên không có bạn không hiền như bọ ngựa. Ông ta thì khoái bọ ngựa.
“Mày có vợ hồi nào vậy?” chưa kịp chào, mẹ đã ném ra câu hỏi bất ngờ. Tôi lặng thinh. Cục nghẹn trong cổ họng. Tiếng mẹ đã khàn nhưng nghe vẫn quen, vẫn gần gũi, nhưng đặm chút ngạc nhiên và thấp thoáng chút phiền muộn. Hệt như lần hỏi tôi mười mấy năm trước rằng Sao con trốn học. Đường dây điện thoại chợt kêu ù ù, như thể có máy bay hay xe vận tải cơ giới hạng nặng chạy qua chỗ mẹ đứng. Cũng có thể tại tai tôi ù. Tôi cũng không chắc lắm. Giọng nói mẹ chìm vào khối tạp âm hỗn độn. Mẹ lặp lại câu hỏi trong tiếng động cơ rì rầm. Rồi tất cả im vắng bất ngờ. “Hở con?” Mẹ nói.
Bê, con trai của Mẹ, đã theo Mẹ đến giảng đường từ thuở còn trong bụng Mẹ. Suốt thời gian đại học của Mẹ, Bê có nhiều đóng góp khác nhau theo từng thời kỳ. Khi Mẹ làm bài kiểm tra môn Đầu Tư và Tài Chính trong lục cá nguyệt đầu tiên, Bê mới ba tháng tuổi. Mẹ nhẩm tính, bài thi một tiếng rưỡi, đi về từ nhà đến trường thêm một tiếng rưỡi. Như vậy, Bê phải xa Mẹ ít nhất ba tiếng đồng hồ. Mẹ biết tính Bê, mỗi hai tiếng đồng hồ Bê oe oe đòi bú sữa Mẹ. Bê xấu đói lắm, đòi mà không được, Bê nhăn nhó um sùm. Ngày hôm đó, dì Thành đến giữ Bê. Dì Thành rất hồi hộp. Dì chưa có em bé, chẳng biết phải làm sao cho đúng ý Bê. Mẹ thi xong, phóng ra xe về nhà. Mẹ bắt đầu sốt ruột. Mẹ xa Bê đã hơn ba tiếng đồng hồ. Giờ này Bê chắc Bê đã thức giấc. Hy vọng Bê chịu khó nhâm nhi món trà thảo dược cho trẻ sơ sinh trong khi chờ Mẹ về. Thời đó chưa có điện thoại di động. Bởi vậy, có lo cũng để bụng, chứ Mẹ chẳng biết làm sao. Mẹ ba chân bốn cẳng chạy ba tầng lầu. Vừa đến cửa đã nghe tiếng Bê khóc ngằn ngặt.
Khi chơi những bản nhạc hay, Khang khóc theo giai điệu. Mước mắt chảy, tay kéo tình xuống lên, thân hình diệu dẻo theo cảm hứng. gần như mê cuồng, không biết mình là ai. Tôi cảm nhận được cái hay xuất thần nhưng không hiểu. Khang nói: -- “Cậu Út biết không, cái hay của âm nhạc làm cho lòng sung sướng nhưng cái đẹp của âm nhạc làm cho hồn cảm động. Khi món quà quá lớn, quá sức yêu, không thể cười, chỉ có thể khóc.” Tôi nghĩ, những lúc như vậy, Khang không chơi đàn, mà múa với hồn oan.
Tôi làm việc giữ xe cho một casino ở ngoại ô Toronto, gọi là parking attendant. Đó là nghề mà thanh niên ít chịu làm, phần vì lương thấp, mức tối thiểu, hồi đó 5 đồng một giờ, nhưng lý do chính là vì nó buồn. Bãi đậu xe nằm dưới hầm tối, không nhìn thấy người qua lại, nếu ở ngoài trời cũng sau lưng nhà cao tầng. Không ai làm chỗ đậu xe ở khung cảnh xinh đẹp, nơi ấy dành cho hàng quán. Đi học ban ngày, tôi làm thêm ban đêm là việc thích hợp, có thể thỉnh thoảng ngồi học bài. Nhân viên trong phiên gác trước tôi là cô gái bằng tuổi hoặc cùng lắm lớn hơn một hai tuổi, nhưng không hiểu sao cô vẫn có thói quen gọi tôi là em và xưng chị.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.