Hôm nay,  

Ông Thầy

27/11/202113:26:00(Xem: 3514)

 


 Đêm trường sơn tối mịt mùng, cái tối dường như đặc quánh lại, không một tí gió thoảng, không một đọt lá lay, không cả tiếng nỉ non của côn trùng. Thời gian cô đọng đến nghẹt thở. Bầu trời đêm cao xa thăm thẳm tưởng chừng thông đến cả vũ trụ vô biên, nền trời đen thẫm hòa điệu cùng bóng đêm, sao trời mờ mịt. Duy ở phương nam xa xôi lại lấp lánh một ngôi sao lạ thường, một ngôi sao cô độc xuất hiện trên nền thẫm đen của bầu trời.

 Thiền am Bờ Này ẩn mình dưới tán thông già, nếu người tinh mắt sẽ thấy bóng thiền am tựa như tảng đá lớn hay là thạch trụ giữa ngàn thông. Lúc này trong am vẫn còn leo lét ánh đèn, đêm càng về khuya, không khí tịch mịch thâm u càng sâu thêm. Ông thầy ngồi yên đấy, thân hình bất động, thỉnh thoảng nhẹ tay lật trang sách khác, ngòi bút vẫn chạy đều đều trên trang giấy, ánh đèn soi bóng ông thầy trên vách như người khổng lồ lặng yên, chỉ cái bóng của đầu quản bút thì nhấp nhô như biểu đồ điện tâm. Đêm trường sơn người và vật hóa thạch cả, chỉ còn dòng tư tưởng của ông thầy trào dâng lênh láng khắp không gian là chưa bị hóa đá mà thôi.

 Mà nào chỉ đêm nay, đã ba ngàn đêm rồi, kể từ ngày ông thầy về trú ở am này. Am Bờ Này cũng vắng vẻ bình lặng như chủ, chẳng thấy người lai vãng hay khách viếng thăm, họa hoằn lắm mới có một vài vị tăng hay tục từ phương xa ghé đến. Dân chúng quanh vùng cũng không thấy đến am như đến những ngôi chùa khác, thậm chí nhiều người cũng chẳng biết là ở vùng mình có một cái am như thế, dĩ nhiên cũng chẳng biết có ông thầy hay pháp danh của ông thầy. Một vài người ở xóm núi có bảo nhau họ thấy một ông thầy gầy gò thường mặc áo vạt hò màu nâu hay màu lam chi đó, có kẻ còn tỏ ra rành việc xì xầm:” Ông thầy bị đi tù vì làm việc quốc sự” từ đó mọi người càng thờ ơ hơn, họ sợ liên lụy đến mình. Dân cư không biết đã đành, ngay cả những ông tăng ở mấy chùa của xứ ngàn thông cũng lơ là, có vị biết nhưng né, cũng có nhiều vị chẳng biết có một ông thầy như thế. Vì vậy mà ông thầy suốt thời gian dài một bóng trong am giữa đại ngàn. Ông thầy vẫn thản nhiên chẳng động tâm, ngày nào cũng thế, sau thời công phu sáng thì ra vườn chăm luống cà vừa trổ bông, vồng cải chớm vàng, ông thầy cuốc đất làm lụng như một nông dân chính hiệu. Cũng có khi ông thầy ngồi tấu những khúc dương cầm của Bach, Beethoven, Mozart… Ban đêm ông thầy đọc sách, dịch kinh, thời khóa dường như không có chỗ trống để biết mình đang cô tịch. Ngày đêm sáu thời tinh tấn không ngừng nghỉ.

 Đêm nay cũng thế, ông thầy cần mẫn, cẩn trọng dịch từng câu chữ, tra tìm nghĩa từng từ, so sánh đối chiếu từ bản Hán với các bản Sanskrit, Pali… Ông thầy gầy gò như lau sậy mà lại có sức dẻo dai như tùng bách ngoài sân. Đồng hồ báo thức đã canh ba, không thấy ông thầy tỏ ra mệt mỏi hay muốn đi nằm, toàn tâm trí dồn hết vào trang kinh.

 Đêm trường sơn đen kịt, cái lạnh từ ngoài và trong am không có giới tuyến nào, cái lạnh và màn đêm hòa vào nhau như một, dù rằng thực thể vẫn là hai, cả trong lẫn ngoài vốn là hai nhưng giờ cũng chỉ là một, không làm sao phân biệt cho ra đâu là một với hai.  Chợt từ trên không trung rơi rơi xuống những đốm sáng, ban đầu lác đác thưa thớt nhưng dần dần về sau nhiều hơn, một lát nữa thì dày đặc như sao sa mưa băng. Vô số những đốm sáng lung linh hình dáng hoa mạn thù sa, mạn đà la, ma ha mạn thù sa, ma ha mạn đà la… Một khoảng không quanh am Bờ Này sáng rực rỡ lung linh đầy ảo diệu trong cơn mưa hoa. Từ bốn phương xuất hiện bốn vị thiên oai phong lẫm liệt sừng sững giữa không trung, bên trên vô số các thiên thần cùng Càn Thát Bà vây quanh. Dưới đất không biết từ đâu các vị địa thần, sơn thần, lâm thần cùng các lòai khẩn na la, ca lâu la, ma hầu la già… xuất hiện nhiều không đếm xuể. Bọn họ lấy làm lạ, ngơ ngác nhìn nhau, tất cả vừa cung kính ngắm nhìn mưa hoa, vừa dò hỏi nhau sự cớ gì. Âm thanh vi diệu vọng từ hư không vọng xuống, các vị Càn thát Bà tấu khúc cúng dường.

 Một vị địa thần bước ra cung kính chắp tay hướng về  phương đông:

- Thưa Thiên Vương Trì Quốc, duyên cớ gì mà đêm nay chư thiên rải hoa cúng dường xuống am Bờ Này? Xin ngài thương tình giải nghi cho chúng tôi!

 Trì Quốc Thiên Vương ôm cây đàn tỳ bà khẽ vuốt nhẹ, dòng âm thanh vi diệu thánh thót làm cho bộ chúng an vui và lòng hướng về Phật, đoạn thiên vương từ tốn:

- Ông là chủ cuộc đất này, lẽ nào ông không biết vì sao ư?

- Thưa thiên vương, tôi biết chứ, từ khi ông thầy về trụ ở đây đã khiến cho mọi sự đổi thay. Tôi và chư vị thuộc hạ hết lòng hộ vệ ông thầy. Tôi cũng nghĩ là mưa hoa cúng dường ông thầy nhưng tôi muốn thưa hỏi để tạo cơ hội cho những kẻ phàm trần được biết duyên cớ.

- Ông quả là một vị địa thần tốt, đúng như thế, chư thiên rải hoa cúng dường và tán thán ông thầy trí huệ cao thâm, giới đức hương bay xa, tinh thần vô úy dấn thân hành hoạt. Ông thầy là hy vọng của xứ sở này!

- Thưa thiên vương, xứ sở này hết chinh chiến đã lâu, tiếng là hòa bình nhưng lòng người vẫn bất hòa, bất bình. Quan lại nhũng nhiễu, dân oan ta thán, xã hội kỷ cương không ra sao. Ngoài đời thì những kẻ có tiền, có quyền mặc sức tác oai tác quái. Trong đạo nhiều vị tuy khoác cà sa nhưng làm việc ma, đem thân cho thế quyền sai xử, xu phụ quyền thế vì danh văn lợi dưỡng. Riêng ông thầy thì không, bởi vậy mà trở thành cái gai trong mắt bọn họ. Thế quyền và những pháp lữ hư ấy ra sức cô lập và mạ lị ông thầy. Thế quyền đã chụp ngục tù hình án lên đầu ông thầy, giờ ông thầy về ẩn ở am này. Địa thần tôi ngày đêm ra sức hộ trì ông thầy và những việc ông thầy làm.

 Trì Quốc Thiên Vương tán thán:

- Lành thay, lành thay, địa thần các ông làm rất tốt, công đức vô lượng. Tôi cũng dốc sức hộ trì ông thầy cùng quốc độ này.

 Trì Quốc Thiên Vương dứt lời thì trên hư không một đợt mưa hoa mạn đà la, mạn thù sa mới rơi xuống sáng lấp lánh trên mái ngói rêu phong của am. Một vị sơn thần chắp tay cung kính hướng về ngài Tăng Trưởng thiên Vương ở phương nam:

- Thưa ngài, đêm nay chư thiên rải hoa cúng dường ông thầy hay có còn ai khác nữa không?

 Tăng Trưởng Thiên Vương tay cầm bảo kiếm nhưng hướng lưỡi kiếm vào trong, ngài sợ sẽ làm đau những vị hiền chúng, vương bảo:

- Ông thầy là nhân duyên chính, mưa hoa cúng dường ông thầy nhưng ánh sáng và hương thơm đâu chỉ mỗi ông thầy thọ, tất cả những vị đồng tâm, đồng giải, đồng hành như ông thầy cũng đồng thọ nhận. Giáo hội dân lập là để hoằng dương Phật pháp, điều hành tăng sự, tuy  bị thế quyền phế đi để lập hội mới hòng quản lý mọi việc theo ý đồ chính trị. Ông thầy và các pháp lữ đồng tâm can đảm đứng riêng, quyết chí phục hoạt giáo hội dân. Ông thầy là bậc đại trí, đại bi, bố thí vô úy.

 Sơn thần chắp tay thưa:

- Chúng tôi có nghe qua bức tâm thư ông thầy gởi hàng hậu học, thật thống thiết, thật từ tâm, mỗi chữ đều thể hiện tấm lòng của ông thầy đối với cơ nghiệp của Như Lai nói chung, với tiền đồ Phật giáo của xứ sở này nói riêng. Chúng tôi kính phục ông thầy lắm, cùng với địa thần và các thiện thần, chúng tôi ngày đêm không rời nửa bước chân để hộ vệ ông thầy.

- Lành thay, lành thay, đức của ông thầy mà cũng là phước của các ông. Dù biết ông thầy là bậc tòng lâm thạch trụ nhưng hàng chư thiên chúng tôi cũng mong ông thầy vững tâm, bền chí trong thời buổi pháp nhược ma cường- Tăng Trưởng Thiên Vương tán thán ông thầy không ngớt lời.

 Một vị hải thần đến sau, nãy giờ lắng nghe, trong lòng chất chứa nhiều tâm sự muốn nói bèn bước ra cung kính chắp tay hướng về bắc phương:

- Thưa ngài Đa Văn Thiên Vương, tôi thường nghe ông thầy thông minh, tài hoa và trí tuệ cao siêu, điều ấy có thật đúng vậy chăng?

 Đa Văn Thiên Vương cầm cây dù vàng, bên mình có con cầy mangut, mỗi khi mangut hả miệng ra thì bao nhiêu châu báu tuôn theo. Thiên vương chống cây dù xuống rồi bảo:

- Ông từ xa đến đây, có lẽ nghe phong thanh chứ chưa biết rõ cũng là lẽ đương nhiên. Tôi nói cho ông biết, ông thầy là một người kỳ tài hiếm thấy, mấy trăm năm chưa dễ có người thứ hai. Ông thầy là bậc pháp khí nối được chư tổ để giữ gìn và phát huy cơ nghiệp của Thế Tôn. Số lượng kinh sách mà ông thầy giảng giải, dịch nghĩa hay viết ra rất nhiều, một người bình thường khó lòng đọc hay hiểu hết được. Ông thầy tinh thông nội điển lẫn ngoại điển, không chỉ kinh sách mà ông thầy còn là một tay diệu thủ, những khúc dương cầm ông thầy tấu lên đến thần Càn Thát Bà cũng phải ngẩn ngơ lắng nghe. Ông thầy là bậc tinh hoa trong đạo ngoài đời của xứ sở này.

 Nghe Đa Văn Thiên Vương tán thán, vị hải thần khâm phục quá đỗi, nét mặt hân hoan rạng rỡ. Vị hải thần cảm thấy hạnh phúc và may mắn khi được chứng kiến chư thiên rải hoa cúng dường trên am của ông thầy. Hải thần nghĩ xứ sở này may mắn có được bậc pháp khí như ông thầy. Hải thần rơi lệ khi được biết ông thầy cũng từng bị hình án ngục tù, lưu đày, ngẫm nghĩ giây lát, hải thần lại thưa hỏi:

- Thưa ngài Đa Văn Thiên Vương, ông thầy là châu báu của xứ sở này, là tăng bảo của tứ chúng nhưng xem ra cả tăng tục ở xứ này không có mấy ai biết đến, việc này nghĩa là sao vậy?

- Ngọc trong đá dễ mấy ai biết, viên bi thủy tinh thì mọi người đều quen, tuy cả hai giống nhau nhưng thực chất khác nhau xa lắm. Ngọc châu đáng gía ngàn lượng vàng còn viên bi thủy tinh chỉ một xu. Ông thầy bị cường quyền lẫn những kẻ đồng đạo nhưng không đồng đức ra sức cô lập, che chắn, phỉ báng… nên ít người biết đến là vậy. Ông thầy thọ ấn truyền thừa nào phải vị ngôi cao, đó chỉ là phương tiện hành hoạt để hoằng dương Phật pháp, điều hành tăng sự, tiếc thay ông thầy lại bị chính những vị đồng hội đồng thuyền cản trở để tranh đoạt ấn, tất cả cũng chỉ vì cái danh hão mà ra. Này hải thần, ông có biết không? Ông thầy còn là một tay làm thơ tuyệt hảo đấy, mặc dù ông thầy không có chủ đích làm thơ. Thơ ông thầy hay đến độ một lão thi sĩ lừng danh và quái dị vào hàng bậc nhất của xứ sở ấy phải thốt lên:” Thưa đại sư, xin đại sư cứ tiếp tục làm thơ...”

 Nghe thế, Hải thần lắc đầu quầy quậy, chép miệng than:

- Ông thầy là bậc tinh hoa, là pháp khí của xứ sở này, vậy mà người bên trong trọn không hay biết, trong khi danh tiếng và đức độ của ông thầy vang khắp bốn bể, thiên hạ bao người quý mến và kính ngưỡng. Xứ sở này quả là bất tường quái dị, mà nào chỉ mỗi ông thầy, tôi thấy những kẻ có tài năng trí lực, có tâm huyết với quốc dân, có lương tri nhân phẩm… đều bị tống giam hoặc bị lưu đầy, còn không nữa thì cũng lưu vong hết cả. Có rất nhiều người tài đi đến xứ khác thì được trọng dụng trong khi xứ sở này lại chối bỏ.

 Đa Văn Thiên Vương nghe thế rơi lệ:

- Những điềm bất tường, những điều quái gở ông có nói hết đêm nay cũng không hết!

 Trong chúng có một vị biên thần, có lẽ ông ấy lần đầu đến đây nên các vị địa thần, sơn thần đều không biết. Ông ấy đến từ vùng biên ngoại cực kỳ xa xôi, theo lời ông ấy thì nhân thấy đêm phương nam chợt sáng lòa vô cùng kỳ ảo nên mới vận thần thông đến để xem vì cớ gì mà trời mưa hoa như thế. Ông đã lắng nghe vấn đáp giữa bách với các thiên vương nên hiểu cớ sự, tuy vậy trong lòng vẫn còn chút hồ nghi, bèn hướng về Quảng Mục Thiên Vương bạch vấn:

- Bạch Quảng Mục Thiên Vương, tôi là biên thần từ xa đến đây, nhân nghe chư thiên tán thán trí huệ và giới đức của ông thầy nên lòng tôi cảm kích vô cùng. Tôi cũng có chút nghi vấn, nếu ông thầy như thế, cớ sao không buông hết xuống, chuyện đời mặc cho bọn người kia tự xử lấy, ông thầy chuyên tu thôi thì sẽ dễ dàng về nước vô sanh hay đến Cực Lạc Tây Phương có phải hay hơn không?

 Quảng Mục Thiên Vương nghiêm nghị nhìn chằm chằm vào bảo tháp mà ngài mang theo, mắt ngài nhìn có thể tiêu diệt cái xấu và cái ác, bởi thế khi với người thiện thì ngài không nhìn họ, e sẽ làm tổn thương, bởi thế Tây Thiên Vương không nhìn vị biên thần:

- Rất hoan hỷ khi biết ông từ biên ngoại xa xôi đến đây, nay nhân lời ông hỏi và cũng vì tất cả chúng ở đây mà  tôi có đôi lời. Ông thầy là bậc xuất chúng vượt qua cái phàm của người đời, giả sứ ông thầy im lặng tu hành thì thế quyền sẽ lập tức phong ông ấy làm pháp chủ ngay, sẽ ban tặng bao nhiêu danh hiệu như: Sư tiến bộ, sư nhân dân, sư ưu tú… và sẽ cung phụng như một ông hoàng, rồi bọn bồi bút sẽ đưa ông thầy lên tận mây xanh. May cho con dân và đạo pháp của xứ này, ông thầy không phải là hạng người như vậy. Ông thầy buông xả tất cả, chỉ duy có mục đích tu hành để liễu sanh thoát tử, chỉ có chí hướng hoằng pháp lợi sanh mà thôi! Sở dĩ ông thầy không thể ngồi yên trong thiền thất mà phải dấn thân hành hoạt là vì lòng đại bi, vì yêu nước thương dân. Kinh Phạm Võng có câu:” Bồ tát gạt lệ xông vào chốn lầm than để cứu dân”. Đúng như thế đấy biên thần ơi! Bồ tát đâu ngự ở nơi chùa to Phật lớn, đền đài lộng lẫy. Bồ tát cũng không ở trong tháp ngà, càng không phải trong những ngôi phạm vũ nguy nga đạt kỷ lục nọ kia. Bồ tát ngay trong đời thường, đồng hành với dân, với những người khốn khổ lầm than. Bồ tát dấn thân vào những vùng oan khiên khổ nạn, thậm chí cả ngục tù. Bồ tát không phải ở những danh xưng đao to búa lớn, những lời xưng tụng bóng bẩy sáo rỗng hay những chức tước phù phiếm. Bồ tát ở những lời thật, hành vi thật cho dù những việc ấy có nguy hại đến mình nhưng miễn là ích người lợi đời. Bồ tát ở chỗ hộ pháp, hộ quốc, hộ dân mà chẳng kể đến sự thiệt thòi cho bản thân mình! Này vị biên thần kia, ông từ xa đến đây nên không biết đấy thôi! Xứ sở này từ xưa đã có truyền thống này rồi. Sa môn, tăng nhân hộ pháp, hộ dân, hộ quốc như các ngài: Pháp Thuận, Vạn Hạnh, Huyền Quang, Tông Diễn… còn nhiều lắm, tôi không thể nào kể hết nội đêm nay. Tôi cũng cho ông biết điều này, gần đây có một gã ất ơ cà lơ phất phơ nào đó của quốc độ Sa Bà đã viết:

 Ông thầy áo vải cơm chay

 Cốc keng chuông mõ tháng ngày kệ kinh

 Dân oan nước loạn mặc tình

 Phật cười uổng cả công trình bấy lâu.

 Ông thấy đấy! Đến một gã vô danh tiểu tốt tầm thường như thế mà còn thấy mấu chốt của vấn đề, tóm lại Bồ tát ắt phải hộ pháp, hộ quốc, hộ dân chứ không phải ở trong tháp ngà bảo bọc của thế quyền. Bồ tát ở trong tháp ngà thế quyền là bồ tát bằng đất qua sông. Sở dĩ ông thầy được cả thế gian biết đến, được người đời tôn kính ngưỡng mộ là do lòng từ bi, trí huệ, bản lãnh, tinh thần vô úy, sự dấn thân hành hoạt… chứ không phải ở ngôi vị hay ở văn khéo thơ hay! 

 Quảng Mục Thiên Vương dứt lời, từ không trung lớp lớp mưa hoa mới rơi xuống, những lớp hoa cũ vừa tan biến là hoa mới lấp vào ngay. Ánh sáng lung linh lấp lánh vô cùng ảo diệu, cả một vùng quang hoa sáng lạn thông suốt từ hư không đến am Bờ Này. Tứ thiên vương, chư thiên, bách thần, hội chúng đều hoan hỷ chiêm ngưỡng cho là việc hiếm có xưa nay.

 Sáng hôm ấy, dân chúng quanh vùng cứ kháo nhau và dò hỏi nhau: “Am ông thầy trên đồi thông có hội hoa đăng đêm qua?”. Có những lời ai đó bác:” Ông thầy lâu nay ẩn cư một mình, có ai lai khứ đâu mà tổ chức hoa đăng?”. Duy có một điều ai ai cũng đồng ý là không hiểu sao quanh am Bờ Này đêm qua rực rỡ sáng lòa như hội hoa đăng. Người này hỏi người kia nhưng chẳng ai biết thật sự đó là sự việc gì. Thiền am vẫn tịch mịch bên đồi thông, ngoài tiếng thông reo vi vu thỉnh thoảng những khúc dương cầm tấu lên hòa cùng. Ông thầy vẫn lặng lẽ như  ngàn thông bên đồi, những lời đồn đại về đêm hoa đăng ở thiền am của ông thầy không có căn cứ gì nhưng vẫn loang đi khắp nơi. Những tay mật vụ lẫn bọn lon ton tép riu được lệnh canh gác ông thầy cũng hoang mang lắm, nhiều kẻ trong bọn chúng cũng thấy đêm hoa đăng ở am ông thầy. Bọn chúng ngỡ ông thầy lén tổ chức hoa đăng hay hội họp chi đấy, tuy nhiên chúng kiểm tra nghiêm ngặt nên không thấy có dấu vết xe đến đi hay người lui tới. Đi dò hỏ quanh vùng thì mọi người cũng chẳng biết chuyện chi, mặc dù nhiều người đều xác nhận đêm ấy quanh am ông thầy sáng rực rỡ lung linh.


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 11/21

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm nay giống như một ngày tựu trường. Đơn giản, vắng một thời gian không ngồi ở lớp học, nay trở lại, thế là tựu trường. Ngày còn bé, mỗi lần nghỉ hè xong, lên lớp mới, trong lòng vừa hồi hộp vừa vui sướng. Có bao nhiêu chuyện để dành chờ gặp bạn là kể tíu tít. Nhưng bên cạnh đó là nỗi lo khi sắp gặp các thầy cô mới… Mỗi năm đều có ngày tựu trường như vậy, nói chung là khá giống nhau, trong đời học sinh. Nhưng cái ngày tựu trường này thật quá khác. Người ta nhìn nhau không dám cười, không dám chào hỏi. Sự e dè này, dường như mỗi người đã được tập luyện qua một năm. Một năm “học chính trị” trong cái gọi là hội trường mà tiền thân là cái rạp hát.
Cái tên Michelin không xa lạ gì với chúng ta. Vỏ lốp chiếc xe tôi đang dùng cũng mang tên Michelin. Sao hai thứ chẳng có liên quan chi lại trùng tên. Nếu tôi nói chúng tuy hai mà một chắc mọi người sẽ ngây người tưởng tôi… phiếm.
Phi là một người bạn đạt được những điều trong đời mà biết bao người không có. Là một tấm gương sống sao cho ra sống để chết đi không có gì hối tiếc. Là một niềm hy vọng cho sự tử tế vốn ngày càng trở nên xa xỉ ở nước Mỹ mà tôi đang tiếp tục sống.
Có một lần đó thầy kể lại chuyện rằng, thầy có một phật tử chăm chỉ tu học, đã hơn 10 năm, theo thầy đi khắp nơi, qua nhiều đạo tràng, chuyên tu chuyên nghe rất thành kính. Nhưng có một lần đó phật tử đứng gần thầy, nghe thầy giảng về phát bồ đề tâm, sau thầy có đặt một vài câu hỏi kiểm tra coi thính chúng hiểu bài tới đâu? Cô vội xua xua tay, “bạch thầy, những điều thầy giảng, con hiểu hết, con hiểu hết mà. Con nhớ nhập tâm. Nhưng đừng, thầy đừng có hỏi, bị là con không biết trả lời làm sao đâu.” Có lẽ là cô hiểu ý mà cô chưa sẵn sàng hệ thống sắp xếp thứ tự lại các ý tưởng.
Ở xứ ấy, người ta ngủ đến trưa mới dậy. Chàng nhớ thế khi nghĩ về mùa xuân, mùa hạ, mùa thu khi còn bé, mỗi lần nghĩ thế, đều lấy làm ngạc nhiên, và lấy làm ngạc nhiên về sự ngạc nhiên ấy. Thế mà giữa một thành phố châu Âu, chàng lại gặp chúng. Trên nền tường trắng và mặt biển xanh, giữa những màu xanh và trắng, chỉ hai màu ấy, đôi khi xanh và đỏ, chàng gặp lại chúng, hồ hởi, tưng bừng, nó và chàng như hai thằng bạn thời mặc quần xà lỏn nay gặp nhau
Lơ đảng nhìn mây trời và đèn đường, tôi từ tốn chuyển xe sang tuyến trái để cua. Cha tôi thường nói, “Con phải tập bỏ tính lơ đểnh, nếu không, sẽ có ngày gặp phiền phức.” Nhưng lơ đểnh là nơi nghệ sĩ lang thang, ngẫu hứng tìm thấy những sáng tạo không ngờ. Chợt thoáng trong hộp kính nhìn lui, thấy chiếc xe đen nhỏ bắn lên với tốc độ nguy hiểm, tôi chuyển xe về lại bên phải, sau gáy dựng lên theo tiếng rít bánh xe thắng gấp chà xát mặt đường, trong kính chiếu hậu, một chiếc xe hạng trung màu xám đang chao đảo, trơn trợt, trờ tới, chết rồi, một áp lực kinh khiếp đập vào tâm trí trống rỗng, chỉ còn phản xạ tự động hiện diện. Chợt tiếng cha tôi vang lên: “đạp ga đi luôn.” Chân nhấn xuống, chiếc xe lồng lên, chồm tới như con cọp phóng chụp mồi. Giữa mơ hồ mất kiểm soát, tử sinh tích tắc, tôi thoáng nhận ra trước mặt là thành cây cầu bắt qua sông.
Danh đi làm lúc 5 giờ sáng, ra về lúc 2 giờ trưa, từ sở làm đến đây khoảng 10 phút đường phi thuyền bay. Giờ này vắng khách. Những lúc khác, buôn bán khá bận rộn. Áo quần lót ở đây khắn khít thời trang, từ đồ ngủ may bằng vải lụa trong suốt, nhìn xuyên qua, cho đến hàng bằng kim loại nhẹ, mặc lên giống chiến sĩ thời xưa mang áo giáp nhưng chỉ lên giường. Hầu hết khách hàng đến đây vì Emily và Christopher. Người bàn hàng độc đáo. Họ đẹp, lịch sự, làm việc nhanh nhẹn, không lầm lỗi. Cả hai có trí nhớ phi thường. Không bao giờ quên tên khách. Nhớ tất cả món hàng của mỗi người đã mua. Nhớ luôn ngày sinh nhật và sở thích riêng. Ngoài ra, họ có thể trò chuyện với khách về mọi lãnh vực từ triết lý đến khoa học, từ chính trị đến luật pháp, từ du lịch đến nấu ăn… Khách hàng vô cùng hài lòng
Sau hơn ba mươi năm gắn bó với cuộc sống ở Mỹ, ông Hải và bà Lan quyết định về hưu và bắt đầu một chương mới của cuộc đời. Quyết định này, mặc dù bất ngờ với những người xung quanh, lại xuất phát từ một ước mơ giản dị-sống những ngày cuối đời an nhàn tại quê hương. Hai ông bà đã dành dụm được một khoản lương hưu kha khá, cộng thêm số tiền đầu tư từ kế hoạch lương hưu 401k, đủ để họ cảm thấy có thể an tâm sống thoải mái ở Việt Nam.
Mẹ chị vừa bước qua tuổi 90, cụ đã bắt đầu lẫn, không tự săn sóc mình và không dùng máy móc được nữa. Bố chị mới mất cách đây hai năm và Mẹ chị xuống tinh thần rất nhanh sau khi Bố mất. Bắt đầu là buồn bã, bỏ ăn, thiếu ngủ, sau đi tới trầm cảm. Chị đi làm bán thời gian, giờ còn lại cả ngày chạy xe ngoài đường đưa đón mấy đứa nhỏ, hết trường lớp thì sinh hoạt sau giờ học. Chị không thể luôn ở bên Mẹ. Chị tìm được nhà già cho Mẹ rất gần trường học của con, lại gần nhà nữa, nên ngày nào cũng ghé Mẹ được, Mẹ chị chỉ cần trông thấy chị là cụ yên lòng.
Má ơi! Thế giới vô thường, thay đổi và biến hoại trong từng phút giây nhưng lòng con thương má thì không biến hoại, không thay đổi, không suy hao. Nguyện cầu ngày đêm cho má, hướng phước lành đến cho má. Cầu chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh tăng ba đời mười phương gia hộ má vượt qua đau bệnh để sống an lạc trong những ngày tháng tuổi già bóng xế.
Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ. Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con : — Giả bộ này. Giả bộ này… / Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính: / — Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây. / Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu: / — Mẹ ứ đii… / Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin: / — Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào. / Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.