Hôm nay,  

Mùa Giáng Sinh Xưa

10/12/202100:00:00(Xem: 2577)

 
Bao nhiêu năm tháng qua đi, tôi vẫn nhớ hoài mùa Giáng Sinh xưa, khi tôi mười sáu tuổi, cái thời phép lạ còn xảy ra, một đôi lần.

“Con có thực lòng tin không?”

Mỗi lần tôi kỳ kèo với Chúa qua cha xứ, vị đại diện của ngài trong cái khung xứ đạo ở trần gian, thì cha xứ lại hỏi tôi câu ấy, và bao giờ tôi cũng quả quyết, “Thưa cha, có. Nhưng Chúa không nhận lời con.”

“Vì đức tin của con còn yếu.”

“Đức tin của con mạnh hơn bao giờ hết.” Tôi nói, chắc như những nhát búa quân lính La mã đóng vào cổ tay Chúa gần hai ngàn năm trước.

“Chúa chỉ lắng nghe những lời nguyện cầu chính đáng.”

Tôi nắm chặt cổ áo mình, “Lời cầu xin của con vô cùng chính đáng.”

“Chúa sẽ nhận lời.”

Tôi buông cổ áo mình ra, “Thưa cha, con phải chờ bao lâu?”

“Nhiều khi Chúa thử thách con người đến năm, mười năm.”

“Chúa ơi!” Tôi lại nắm chặt cổ áo và rên lên khe khẽ. Chắc cha xứ nghe được. Cũng may mà cha xứ không nói Chúa đôi khi thử thách cả một đời người.

Tôi cố xăm xoi, nhìn qua tấm màn mỏng ngăn đôi phòng giải tội nhưng chỉ thấy lờ mờ một đầu tóc bạc phơ. Tôi hình dung những nếp nhăn trên vừng trán rộng giãn ra, đôi mắt mệt mỏi sau lớp kính cận dầy nhướng lên, và lằn môi khô đang vạch một khóe cười nhân hậu.

“Con đừng lo. Bao giờ Chúa cũng lắng nghe những lời cầu nguyện chân thành và cuối cùng Chúa sẽ nhận lời.”

“Lúc đó muộn mất rồi!” Tôi thở than như đứa bé xa nhà chờ hoài một cánh thư không bao giờ gửi đến.

“Con cầu xin điều gì?” Giọng cha xứ trầm, đục.

Tôi lúng túng, “Thưa cha... thưa cha...”

“Hãy xin thì sẽ được.” Cha xứ gỡ rối cho tôi. “Lời dạy của Chúa, con còn nhớ không?”

“Vâng, con nhớ.” Tôi nhanh nhảu.

“Vậy thì con xưng tội đi.”

Mười lăm tuổi, tôi không còn phá phách, nghịch ngợm trèo lên mái nhà cha xứ, bắt mấy con chim sẻ nhỏ. Không tinh quái dán chữ bậy bạ lên lưng áo bạn bè. Không trốn lễ, đi chơi, tụ tập trong hẻm chia nhau điếu thuốc lá đầu lọc lấy trộm được của bố. Không đi nói dối cha về nói dối chú như lũ bạn cùng trang lứa. Tôi chỉ có một tội, cái tội kéo tôi xuống hỏa ngục nếu không được thứ tha.

“Xưng tội đi con.” Cha xứ nhắc.

“Con đã rước mình thánh Chúa khi chưa xưng tội.”

Cha xứ bàng hoàng, “Sao vậy con?”

“Vì,” tôi bối rối.

“Vì sao?”

“Con... quên.”

Phép lạ. Đức tin chở được núi. Có ai tin chuyện đó không? Riêng tôi, tôi tin. Mặc dù chưa bao giờ thấy chuyện núi non đổi dời. Niềm tin ấy trọn vẹn như bông hoa nở đầy mùa xuân chín. Trái tim tôi là cả một khoảng xanh bao la của mùa xuân. Và một lần kia niềm tin nở hoa rực rỡ trong không gian, nồng nàn hương sắc. Thảm cỏ mùa xuân, rụt rè những bước chân. Người ấy. Nguồn suối mộng mơ. Cội rễ của yêu thương. Buổi tối hôm lễ Giáng Sinh, tôi chờ hoài ở gác chuông nhà thờ xứ đạo. Tiếng chuông ngân nga. Đêm an bình. Chúa giáng trần trong băng giá năm xưa. Hạnh phúc có giáng sinh trong máng cỏ lòng tôi đêm tràn đầy ân sủng này không?

“Ơi, người!” Tôi thầm gọi. Và tôi nài nỉ đấng thiêng liêng cho tôi biết nhà người ấy; cái người tóc thả, vai ngoan.

Những giáo dân ngoan đạo lác đác đi đến giáo đường. Tôi ngoan đạo không mà đến nhà thờ từ khi chưa đổ hồi chuông thứ nhất? Những vì sao lấp lánh trên mảnh lụa đen của đêm tháng Chạp. Con quỳ lạy Chúa trên trời, sao cho con lấy được người con yêu. Mười lăm tuổi đầu, đã biết gì chuyện yêu đương mà bày đặt mơ tưởng. Nhưng tôi vẫn hát thầm bài thơ phổ nhạc của ai đó. Con quỳ lạy Chúa trên trời. Tờ thư trong túi áo. Đêm nay tôi thực hiện một thí nghiệm quan trọng. Tôi sẽ còn là con chiên của Chúa hay không là do tối hôm nay.

Tôi đã cầu nguyện không biết bao lâu trong giáo đường những sáng lễ tinh mơ, những chiều kinh muộn màng. Tôi gian nan vất vả. Người con gái ngoan đạo ấy có bao giờ nghĩ đến tôi không? Giáo đường, cõi bình an, nơi tôi chìm đắm trong những bài thánh ca du dương, rêu rao những kinh cầu ngợi ca Thượng Đế. Biết rồi Thượng Đế có nghe thấy những lời cầu xin thoang thoảng như trầm hương trong gió?

Người con gái tóc xõa ngang vai. Áo dài trắng đôi tà phủ kín hai bàn chân guốc mộc. Người cung kính đi lên bàn thờ rước mình thánh Chúa. Tôi cuống quýt đi theo. Nhà thờ Công Giáo phân biệt rõ ràng. Nam bên phải, nữ bên trái. Xứ đạo tôi quê mùa, cổ kính. Cha xứ còn sót lại của thời Pháp thuộc. Nam nữ thọ thọ bất thân. Người ấy lên rước bánh thánh, tôi cuống quýt đi theo. Đi lạc cả sang phía đàn bà, hoảng hốt, chạm vào cả đám áo dài trắng tinh khôi. Hương bồ kết lâng lâng, mùi vải mới chập chùng những lời ru. Tôi bàng hoàng, lâng lâng, khốn khó.

Tiếng ai đó gọi khẽ. Bàn tay sắt nguội kéo lấy tôi. Tôi bừng tỉnh. Bàn tay kéo tôi về bên phải, phía của đàn ông. Bàn tay giúi tôi xuống, đau nhói cái cổ mềm; bàn tay cứng hơn gỗ đá. Tôi quay lại, bắt gặp đôi mắt nghiêm khắc của ông quản già, người coi sóc thiếu nhi trong xứ đạo. Đôi mắt có những đường gân máu nhìn tôi, như nhìn một con chiên đi lạc. Bàn tay ấy ấn tôi xuống bục quỳ chịu lễ. Khi quỳ yên trước bàn thờ, tôi sực nhớ mình chưa xưng tội. Hình ảnh người con gái loáng thoáng trong mắt nhìn.

Người tóc thả thánh thiện, cao xa. Người thiên thần có đôi cánh mềm mênh mang trầm hương dâng hiến. Tôi phạm tội chỉ vì mê một người con gái. Tôi rước mình thánh Chúa khi lòng còn vướng tội trần gian. Ngay từ thuở có trí khôn, tôi đã hiểu rằng phải giữ tâm hồn trong trắng, phải được tha thứ mọi tội lỗi trước khi được phép lên bàn tiệc thiêng liêng. Khi miếng bánh thánh tan mềm trong miệng, tôi thầm cầu xin ơn lành, cho người ấy và cho tôi. Chúa sẽ vì người thùy mị, ngoan hiền mà tha cho tôi cái tội gán ghép hình ảnh một người con gái vào những lời cầu kinh. Và tôi xin Chúa cho tôi quen được người, cho tôi biết nhà cái người tóc thả vai ngoan.

Cái tội rước mình thánh Chúa lúc lòng không trong sạch ấy đâu phải lỗi tại tôi. Vậy nên lúc cha xứ hỏi vì sao, tôi đã chối biến rằng tôi quên.

Sau buổi lễ là phần phát bằng khen cho những thiếu nhi ngoan đạo. Cha xứ gọi cho tôi một cái tên. Ngỡ ngàng tôi biết bao nhiêu. Người áo trắng rụt rè lên nhận tấm bằng khen. Vậy là tôi biết một cái tên. Tên của người ấy. Từ hôm ấy, tôi có cái tên quen cho những kinh nguyện, sớm chiều.

Đó là lần thứ nhất Chúa nhận của tôi một nửa lời nguyện cầu. Phép lạ đầu đời, năm tôi mười lăm tuổi.

Sau hôm ấy, tôi tin vào phép lạ. Tôi tìm trong Kinh Thánh những đoạn nói về đức tin, về phép lạ. Hãy về đi, em con sẽ sống lại. Chuyện kể trong Kinh Thánh. Xóm nhỏ, như xóm đạo của tôi. Người phụ nữ vật vã bên quan tài đứa em trai. Nghe tin Chúa đang rao giảng tin mừng trong thị trấn, chị tất tả đến xin cho em mình sống lại. Chúa bảo em con sẽ sống lại. Chị lắc đầu con biết em con sẽ sống lại ngày tận thế. Người thiếu phụ cũng ngoan đạo như tôi, bởi chị biết trong ngày phán xét ấy, mọi người đều sống lại, cả tôi và, để nhìn lại những gì mình đã dành dụm hay phung phí trong cuộc đời. Niềm tin của người thiếu phụ đã giúp người em trai chết đã ba ngày, sống lại. Năn nỉ hoài, Chúa cũng phải xiêu lòng. Người thiếu phụ trong Kinh Thánh ngày xưa đã nghe lời Chúa nhắn nhủ, đã tin, và đã được. Hãy tin thì sẽ được. Xưa nay tôi chẳng cầu xin điều gì. Nhưng lễ Giáng Sinh năm ấy, tôi xin Chúa một phép lạ nhỏ nhoi. Không như việc làm kẻ chết sống lại, hay cho kẻ mù được thấy, kẻ què được đi. Tôi chỉ xin có được người ấy như một người yêu bé nhỏ trong đời.

Và cả năm trời tôi ngoan đạo, có ai biết chăng cũng nhờ hình bóng một người con gái.

Tôi không biết nhà người ấy. Mười lăm tuổi, tôi không đủ gan dạ đi theo một người con gái lúc tan lễ. Xứ đạo nhỏ bé. Tuổi mười lăm, tôi biết sợ tiếng xì xào thường bò lan theo những ngõ quanh khuất nẻo hai bên viền dầy khóm cây dâm bụt hay loài hoa cứt lợn (có phải đó là tên thật của loài hoa nhỏ như những vẩy móng tay, đủ mầu sắc, thời còn nhỏ chúng tôi hay kết vào nhau thành vương miện?) Tôi ngại những cái gật đầu, những cái nháy mắt đầy ẩn ý, tôi thù những câu chua chát, mỉa mai bò lan trên môi mép dân gian. Thế nên tôi chỉ biết viết tên người ấy lên đầu mỗi trang vở học, lên cuối mỗi chương cuốn kinh bổn tôi nâng niu. Đêm Giáng Sinh năm ấy, tôi cầu xin một phép lạ: cho tôi quen người ấy trước khi tôi người ta quen bất kỳ đứa con trai nào khác.

Đêm thánh. Chuông giáo đường ngân nga. Tôi đứng bên ngoài khung gió, trên những bậc xi măng cứng lạnh, tờ thư xếp vuông vắn nhét trong ngực áo trái. Ở đó, trái tim đập những nhịp sôi nổi. Lễ nửa đêm xong, tôi sẽ theo người ta, nhất định thế. Theo cho tới một khúc quanh vắng vẻ, nơi cây bàng cằn cỗi như người lực điền già nua gân guốc, vươn những ngón tay khẳng khiu lên bầu trời ru lũ ve sầu ỉ ôi suốt những ngày mùa hạ. Nơi ấy, tôi sẽ trao lá thư cho người con gái. Tôi sẽ lì lợm; (trời ơi, tôi có dám lì với người ấy không!) sẽ nằm vạ trên đường nếu nàng không chịu nhận thư.


Vậy mà cuối cùng tôi cũng không trao được tờ thư cho người mình thầm thương. Mười lăm tuổi. Học đệ tứ, biết gì chuyện yêu đương. Tôi chỉ dám dùng chữ “thương” khi nghĩ tới người ấy. Trời ơi, tôi thương nàng; thương đến độ dối cha, dối mẹ. Lễ xong, tôi chờ miệt mài ở những bậc thang ngoài cửa nhà thờ. Người ấy còn thì thầm bên hang đá. Cầu nguyện gì thế nhỉ. Có tôi trong những kinh nguyện ấy không?

Sau cùng người cũng ra về. Áo dài trắng đôi tà vờn bay trong gió. Tôi mắt trước mắt sau. Tôi bồng bềnh trong gió. Tôi thương chiếc áo người ấy đang mặc, thương chiếc bandot người ấy cài trên tóc và thương luôn đôi guốc mộc người ấy xỏ dưới chân. Tôi ghen với chúng và tôi sẵn sàng đổi tất cả mọi thứ để được là áo, khăn, dép guốc của người. Tôi đặt tay lên ngực để biết chắc tờ thư còn trong túi áo (hay để đè nén nỗi xôn xao?) Nhưng Chúa đâu có nghe lời nguyện cầu của tôi. Tan lễ nửa đêm, người ấy về với mẹ và một cô gái nhỏ (cháu hay em?). Cô bé áo hoa vàng tung tăng những bước nhảy lò cò trên sân gạch. Tôi lủi thủi bước đi trong sương lạnh, như một oan hồn chưa thoát cõi trầm luân.

Mùa Giáng Sinh qua đi. Tôi lớn thêm một tuổi. Tay chân như dài ra. Giọng nói trầm hơn. Những sợi lông măng chen nhau mọc dầy quanh mép. Tôi tập tành để râu. Tôi đàn, tôi hát một mình. Và tôi làm thơ vẽ vời chuyện tình với người con gái xứ đạo. Tết đến. Mùa hạ qua. Những ngày hè rong chơi. Chiến tranh ở đâu đó trong những bản tin chiến sự, trong những đoạn phim thời sự trắng đen. Thằng bạn có người anh chết trận. Lá cờ phủ quan tài óng lên cái mầu tê bại cảm quan. Những người lính bồng súng chào. Thằng bạn khác có người anh mất tích. Pleiku, hay Plei-me. Những đồi trà ngát xanh và rừng cà phê trong câu chuyện kể lại xa hút tầm mắt. Tôi bước dần về phía cổng những quân trường. Thằng bạn lớn hơn vài tuổi đi trình diện nhập ngũ. Tôi đặt quê hương vào kinh nguyện. Và tôi vẫn còn người ấy trong những lời cầu xin ăm ắp mộng mơ. Chúa ơi, làm cách nào để người ấy thương con.

Chiến tranh khốc liệt lắm rồi, tôi làm sao chờ được. Sáng nào tôi cũng ngóng người tóc xõa vai ngoan lên rước mình thánh Chúa. Trang nghiêm, hiền lành như con chiên nhỏ. Tôi bên dưới, bồi hồi chiêm ngưỡng mà mơ tưởng đến những khoảng xanh của trời, những mênh mông của đồng cỏ thênh thang hoa bướm, những hẹn hò ngây ngất, những đưa đón mang mang.

Tôi khám phá thêm một điều; một điều không vui. Người ấy bao giờ cũng đi nhà thờ với mẹ. Tôi mong cho mẹ người ta đau ốm, nằm liệt giường ít lâu. Chả dám mong bà chết (đám tang dù có cả xứ đạo đi đưa, dù có ca đoàn hát cho nghe giờ hạ huyệt, dù có cha xứ vẩy nước thánh, ban phép lành, cũng vẫn là điều không ai mong ước,) chỉ cần bà đau ốm ít hôm. Người ấy đi nhà thờ một mình, tôi sẽ trao cho người tờ thư; tờ thư tôi mang trong người không biết bao lâu (đúng ra là lá thư thứ nhì. Lá thư đầu giấu trong túi áo, mẹ tôi sơ ý đem giặt, chỉ còn lại một cục dính queo vào nhau, nhưng tôi còn giữ đến bây giờ.) Nhưng mẹ của người ta không bao giờ đau ốm. Hơn một năm trời tôi mới chỉ biết được cái tên của người con gái. Đến bao giờ tôi mới cầm được những ngón tay ngoan.

Nên niềm tin vào Thượng Đế của tôi dần phai.

“Con có thực lòng tin không?”

“Thưa cha, có. Nhưng Chúa không nhận lời con.”

“Vì đức tin của con còn yếu.”

“Đức tin của con mạnh hơn bao giờ hết.”

“Chúa chỉ lắng nghe những lời cầu xin chính đáng.”

“Lời cầu xin của con vô cùng chính đáng.”

“Chúa sẽ nhận lời.”

“Thưa cha, con phải chờ bao lâu?”

“Nhiều khi Chúa thử thách con người đến năm, mười năm.”

“Chúa ơi!”

“Con đừng lo. Chúa lắng nghe những lời cầu nguyện chân thành và Chúa sẽ nhận lời.”

“Lúc đó muộn mất rồi!”

“Con cầu xin điều gì, cha có thể biết được không?”

“Thưa cha... thưa cha...”

“Hãy xin thì sẽ được. Lời dạy của Chúa, con còn nhớ không?”
 
Cái điệp khúc tôi ca đi ca lại hoài với cha xứ mỗi lần vào quỳ trước tòa giải tội.

Tôi mệt mỏi với những lời cầu kinh quen thuộc. Sau mỗi lần thì thầm với cha xứ trong tòa giải tội, tôi lại bước xuống thấp hơn một bậc trong những lời nguyện xin. Tôi chỉ mong được biết nhà người ấy mà không phải lẽo đẽo theo về sau mỗi lần tan lễ. Chúa không nghe lời cầu xin chân thành của những thằng bé mười sáu tuổi. Hay tại tôi không có tiền bỏ vào cái hộp gỗ phía chân tượng Đức Mẹ để làm mặn mòi thêm những lời cầu nguyện trẻ con.

Chủ Nhật đầu mùa Vọng - mùa của mong chờ, mùa thế gian kêu cầu “trời cao hãy đổ sương xuống,” trong những bài thánh ca - tôi trốn lễ, ôm nỗi buồn trẻ con, ngồi chôn trong xó tối con ngõ cụt đầu nhà thờ. Bọn thanh niên tụ tập, những đầu điếu thuốc đỏ rực theo từng hơi rít. Chắc không ai biết có tôi ở đó. Tôi co mình trong bóng tối, mặc tiếng xì xào lọt qua tai.

“Đốt xong, có mười ngàn xài chơi.”

Giọng đàn ông nhừa nhựa, như được tẩm bằng lớp keo lỏng. Mùi thuốc lá thoảng bay trong gió. Tôi bóp miệng chặn cơn ho. Những cái đầu lố nhố cách tôi không tới vài bước chân.

“Tao sợ.”

“Sao phải sợ. Mày canh chừng, tao đốt cho.”

Những ngày tao loạn đã đem lại ít nhiều xáo trộn cho xứ đạo. Bọn đầu trộm đuôi cướp. Những con chiên ghẻ của xóm làng. Chắc lại nghịch ngợm đốt mấy đống lá khô rồi bỏ chạy như vẫn làm.

“Ai thấy thì bỏ mạng!”

Chẳng có gì quan trọng. Bọn ăn không ngồi rồi. Tôi không thèm để ý.

“Đêm Noel mọi người đi lễ nửa đêm hết mẹ nó rồi! Chịu đi, tao chia mày ba ngàn.”

Tiếng bẻ ngón tay rồm rộp.

“Chịu không?”

“Nhà nó ở đâu?”

“Trời ơi, nhà con bé ấy mà mày không biết nữa sao!”

Tai tôi ù đi như lần nghe trái đạn pháo kích nổ bên sân nhà hàng xóm. Mắt tôi hoa đi theo những ngọn đèn lồng đu đưa trong gió. Có được bao nhiêu người con gái trùng tên với người ấy trong xứ đạo của tôi. Tôi lắc đầu, cố xua những ám chướng, yêu ma như những tơ nhện bám đầy trên tóc.

“Nhưng tao không hiểu...”

“Không gả con gái cho nó thì nó đốt nhà, có mẹ gì mà không hiểu.”

“Nhà con bé ấy ở đâu?”
Vậy là tôi biết nhà người ta. Đó là lần Chúa nhận thêm của tôi một nửa lời cầu xin cho tròn cái phép lạ đầu đời, ngày tôi mười sáu tuổi.

Đêm Noel, tôi hăng hái đón đường người ấy, toan báo cái tin chẳng lành. Thấy bóng người con gái, tôi thu hết can đảm xăm xăm đi về phía tà áo trắng vờn bay, có biết đâu cái bà áo già áo gấm đi bên cạnh, trong cái đám đông những con chiên ngoan đạo kia lại là mẹ nàng (trời ơi, người ấy còn đi với mẹ tới bao giờ!) Tôi đứng sựng lại một giây. Con mắt người đàn bà xuyên qua lồng ngực gã thiếu niên. Con mắt cháy lửa địa ngục, nơi những linh hồn tội lỗi bị giam cầm (có tôi trong đó không?) Tôi bủn rủn tay chân. Người ấy líu ríu đi sát vào mẹ. Tôi nhìn vào khoảng trống lấp lánh sao trời. Những vì sao chóng mặt, muốn rụng ra khỏi bức màn đen thẫm mầu của đêm tháng chạp.

Cách một khoảng xa, tai tôi vẫn còn nghe được cái giọng người đàn bà sắc như vỏ mía. “Con cái nhà nào mà mắt trước mắt sau, như quạ vào chuồng lợn.”

Giáng Sinh năm ấy, lần đầu tiên tôi bỏ lễ nữa đêm. Con ngõ dẫn vào nhà người ấy khóm hoa giấy xào xạc. Trời trong, lấp lánh ánh sao. Những chiếc đèn ngôi sao đu đưa trong gió nhẹ. Đèn mầu chớp tắt quanh những hang đá xinh xinh trong những ngôi nhà xóm nhỏ. Tôi ngồi hoài trên bậc thềm xi măng lạnh lẽo. Cái lạnh bò trên da, lòng lâng lâng cánh diều bồng bềnh trong gió. Tôi làm người canh gác đêm sương, tôi giữ nhà cho niềm vui của người ta trọn vẹn; cho Đêm Thánh vô cùng.

Đêm Thánh ấy vô cùng, bởi đám đầu trộm đuôi cướp ôm bình xăng lảng vảng trước nhà cô gái tôi yêu thầm, nhớ trộm, lần nào cũng thấy một chiếc bóng ngồi bó gối trên bậc thềm.

Đầu mùa xuân, tôi khăn gói vào Sài Gòn trọ học. Lần đầu tiên xa nhà, tôi quay mặt giấu đi những giọt nước mắt con trai. Mẹ dựa sát vai bố, âm thầm lau nước mắt. Những đứa em mất hết cái vẻ hồn nhiên, lí lắc hằng ngày. Những con mắt ướt mèm, những bờ má hoen nước mắt. Những đứa bạn ấu thời bỗng dưng khôn lớn. Nghiêm trang, lặng lẽ. Bao nhiêu lời dặn dò, bao nhiêu ánh mắt thân yêu.

Chỉ thiếu một người.

Chiến tranh kéo lũ bạn cùng trang lứa vào cái vòng lửa đạn. Tôi lớn cùng với chiến tranh. Chiến tranh và tôi đuổi bắt nhau. Tôi sống sót, hai mươi mấy năm sau. Bao nhiêu bạn bè tôi bị chiến tranh bắt kịp.

Bao nhiêu năm tháng qua đi, sao tôi vẫn nhớ hoài mùa Giáng sinh xưa, khi tôi mười sáu tuổi, cái thời phép lạ còn xảy ra, một đôi lần.

26 tháng 10, 2003
Youtube Link:
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chị Hai đã uống một ly nước đầy và đi làm việc tiếp. Đoan vào lại chỗ của mình. Như một phản xạ, Đoan lại cho tay vào túi, làm như tìm xem trong đó có sót lại một viên kẹo chăng. Mơ hồ, Đoan nhớ ngày xưa Đoan hay ví một hành động “vớt vát” nào đó như là “tìm con cá sót lại trong chiếc giỏ của cô Tấm.” Mắt Đoan cay cay. Bỗng như thấy mình đang đi vào lại đường cây còng. Mùa mưa, những chiếc lá trên cao đọng nước, rũ nhè nhẹ xuống tóc Đoan, nghe mát. Hai túi áo blouse lúc nào cũng đầy kẹo. Đoan vào trại bệnh. Những dãy giường đầy người. Thay băng xong cho ai, Đoan tặng người ấy một viên kẹo
Ở đây tôi chỉ muốn đưa một vài nét chính của các môn Khí công mà tôi đã tập qua, để người đọc theo đó sẽ chọn được một môn pháp thích hợp cho mình tập. Chả thế người xưa thường hay nói “Tùy bịnh chọn công“, tùy theo thể chất và sức khoẻ mà chọn cách tập Khí công.
Ngày tựu trường năm nay, trường Việt Ngữ Suối Mở Offenbach đón tiếp 14 học trò mới với tuổi tác, trình độ tiếng Đức, tiếng Việt chênh lệch khá nhiều. Tạm thời, cô giáo gọi lớp này là Lớp Mới. Giờ học đầu tiên, cô giáo chưa thực sự “dạy” chữ, chỉ “dỗ” các học trò. Hy vọng học trò sẽ thấy học tiếng Việt không khó lắm và tìm thấy niềm vui khi đến trường Việt Ngữ mỗi thứ Bảy. Chờ cho học trò tìm chỗ ngồi xong, cô giáo giới thiệu mình, và tập cho học trò chào hỏi. Nghe các em đồng thanh: “Con chào cô giáo”, lòng cô giáo rộn lên niềm vui, liên tưởng câu châm ngôn “tiên học lễ, hậu học văn” mình được học ngày xưa.
Cô vẫn nhìn thẳng phía trước, không nhìn ngang nhìn ngửa. Anh liếc nhìn cái túi xách giữa hai đùi cô, thấy cộm lên, nghĩ rằng trong ấy có một khẩu súng ngắn, đã lên đạn, lát nữa sẽ kề vào thái dương của anh. Anh nín thở.
Tháng tư 1976, sau một mùa đông ở North Dakota, vừa có bằng lái xe, tôi bỏ việc, bỏ lại một vùng quá bình an, quá tử tế, nhưng cũng quá cô quạnh này, đi thẳng về hướng tây...
“Anh nhớ đến dự lễ trao đẳng cấp Đại Bàng cho thằng con em nha! Để mừng cho em và cháu…” Tôi nhận được điện thoại như vậy từ C., một người bạn trẻ có con trai là hướng đạo sinh thuộc Liên Đoàn Trường Sơn, được nhận danh hiệu Đại Bàng vào ngày 16/08/2025. Đã lâu rồi, kể từ khi hai thằng con ngưng sinh hoạt hướng đạo để đi học đi làm, tôi không có dịp trở về thăm lại liên đoàn. Công việc thì nhiều, thời gian thì ít. Nhưng lần này thì không từ chối được rồi!
Đó là tháng 6-1989, lần đầu đến New York và vào một bảo tàng viện nổi tiếng ở đây, tôi tình cờ, tới chỗ treo một bức tranh trừu tượng khổng lồ, cao khoảng 2 mét, ngang khoảng 6 mét. Tôi kinh ngạc với sự giàu có ở đây, bảo tàng viện này dành riêng ra một căn phòng lớn, đơn giản, sang trọng, chỉ để trưng bày một bức tranh đó...
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.