Hôm nay,  

CUỘI

13/05/202220:36:00(Xem: 3700)

Nghỉ_ngơi

 


Bắc thang lên hỏi tận
trời,

Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời.

Cuội nghe thấy nói Cuội cười,

Bởi hay nói dối nên ngồi gốc cây.

(Ca dao)

 

"Nói dối như Cuội", đó là câu nói đầu môi của thế gian mỗi khi nói về Cuội. Cuội và nói dối không thể tách rời nhau. Muốn nói về Cuội ta không thể không nói về nói dối, hay ngược lại, xăng có thể cạn, lốp có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi.

 

Vậy nói dối là gì?

 

Nói dối là nói sai hay nói ngược lại với sự thật nhằm đạt mục đích như để lừa, để bịp, để che giấu, để chối, để cãi, để vờ vịt, để chạy tội, v.v. Và để vừa lòng nhau nữa tùy theo đối tượng và hoàn cảnh. Người ta nói dối vì yêu nhau, người ta cũng nói dối vì thù ghét nhau hay chỉ là câu chuyện "làm quà". Nhân vật nói dối có thể là một người, ấy là tự dối mình hay dối lòng, có thể là hai người, là một nhóm hay là cả một "tập đoàn". Tương tự, đối tượng của nói dối cũng có thể là một người, hai người, một nhóm người hay có khi cả nước, cả loài người.

 

Nói dối xẩy ra bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào. Ai cũng biết nói dối cả. Và có người thích nói dối, đến nỗi nói dối cả những điều không cần phải nói dối. Nói dối đã trở thành cái "tật", không nói dối thì cái mồm trở nên lúng túng ngọng nghịu mỗi khi cần phải nói thật. Cái tật này nguy hiểm ngang với cái tật ăn cắp vặt, ăn cắp cả những cái không cần ăn cắp, khi không ăn cắp thì cái tay trở nên ngứa ngáy vụng về. "Dối" thường đi với "gian" để trở thành "gian dối" hay "Ăn gian nói dối" là thế, cũng như ăn tục thì phải đi với nói phét (nói xạo) để thành "ăn tục nói phét" vậy.

 

Chính vì thế nói dối đã là một trong những giới luật cấm của mọi tôn giáo.

 

Nói dối có nhiều trình độ và thứ bậc khác nhau. Nói dối là cả một nghệ thuật tinh vi, thuộc về một thứ nghệ thuật cao cấp vì nó phải hội đủ nhiều yếu tố phức tạp và bén nhậy cả về tâm lý lẫn hiểu biết để nói dối sao cho người ta tin. Người nói dối phải vận dụng trí thông minh, óc sáng tạo để sự nói dối trở nên có logic, có tính thuyết phục và nhất là sự nói dối ấy không thể bị "lòi" như "nói dối thò đuôi" vậy. Nói dối còn đòi hỏi "khổ công", nghĩa là, để được thành danh như Cuội, người nói dối, ngoài cái thiên phú của mình, phải có nhiều công phu luyện tập sao cho da mặt trở nên dầy, dầy ngang với những chính trị gia tầm cỡ và phải luyện tập thân thể để chịu đựng được những cú đòn thù cỡ võ sĩ hạng nặng, vì đôi khi nói dối bị tổ trác có thể bị đánh đến phù mỏ hay guốc cao gót bổ lủng đầu. Trong trường hợp đó chỉ còn biết “ôm đầu máu” mà chạy. Ngoài ra còn phải có trí nhớ tốt để nhớ rằng mình đã nói dối với ai, trong trường hợp nào và nói gì, ra sao.

 

Nhìn chung thì nói dối có những cái đáng ghét như trong những câu tục ngữ, ca dao:

 

– Dối trên lừa dưới.

– Anh này có tính gian tà,

– Đi ra dối bạn về nhà dối con.

– Đi nói dối cha về nhà nói dối chú.

– Manh tâm nói dối cãi cối đổ thừa (hay cãi cối cãi chầy).

 

Và cũng có những cái nói dối thật đáng yêu và vui vui như:

 

Yêu nhau cởi áo cho nhau,

Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay.

 

Nhà em công việc bời bời,

Dối thầy dối mẹ sang chơi với chàng.

 

Dù ai bảo đợi bảo chờ,

Thì em nói dối: Con thơ phải về.

 

Mình nói dối ta mình hãy còn son,

Ta đi qua ngõ thấy con mình bò.

Con mình những trấu cùng tro,

Ta đi gánh nước tắm con cho mình.

 

Em nói dối anh em chửa có chồng

Con ai em bế em bồng trên tay?

 

Anh có vợ rồi anh nói dối rằng không,

Có nên chăng để thiếp còn đi lấy chồng.

 

Nói dối, đứng về cái nhìn thiền quán của nhà Phật. Có vị Thiền sư ghi lời Phật dạy, đại ý: Vạn pháp (mọi vật, mọi sự việc ...) do nhân duyên tạo thành. Cái này có mặt vì cái kia có mặt, cái này vắng mặt vì cái kia vắng mặt, cái này ẩn diệt vì cái kia ẩn diệt. Vạn vật hay mọi sự việc xảy ra trên đời như một mạng lưới nhân duyên chằng chịt. Vì nương vào nhau nên mọi vật mới có thể có mặt và trong cái một có cái tất cảtrong cái tất cả không thể không có mặt của cái một.

Tôi nói vòng vo theo vị Thiền sư như thế để muốn chứng minh cho các anh thấy "nói dối" cũng nằm trong cái định luật nhân duyên, nghĩa là "nói dối" được phát sinh bởi sự tập hợp của những cái "không nói dối". Chẳng hạn như khi tôi đi chơi với cô hàng xóm bị vợ bắt gặp, "nói dối" được phát sinh. Sự “nói dối” này phát sinh bởi các nguyên tố "không nói dối" đó là vợ tôi với cô hàng xóm. Và cái “duyên khởi” để tạo thành “nói dối” nơi tôi là do họ lại gập phải nhau trong tình huống ấy.

 

Nói dối quá đà thành chối, thành thề. Tôi sẽ thề với vợ như anh sẩm thề:

 

Thề rằng sẩm chẳng thấy gì,

Sẩm mà nói dối sẩm thì cũng đui.  (sẩm là thầy bói mù)

(Ca dao).

 

Sau khi tôi chối tôi thề, vợ tin, "nói dối" bị huỷ diệt. Cứ theo thuyết nhà Phật như thế và nếu các anh chấp nhận "nói dối" không có tự tánh vì không thể tự có và tự đứng một mình được thì chắc chắn các anh không còn trách tôi tại sao hay nói dối các anh. Không có các anh thì đã không có "nói dối" nơi tôi. Cười. Và có khi các anh lại tự trách mình là đằng khác, và cũng có khi các anh thấy tôi nói dối các anh lại là một điều cần thiết và đáng yêu nữa, đáng yêu như Cuội và chị Hằng trên cung trăng vậy.

 

Các anh cười với tôi khi tôi nói dối là các anh đang thực tập thiền quán về sự hiểu biếttinh thương hỉ xả. Lúc nào các anh cũng tỉnh thức để cười như thế thì con đường đi tới Niết Bàn không còn xa nữa. Các anh phải cám ơn tôi. Các anh đừng vội cho tôi là ngụy biện để chạy tội vì hay nói dối các anh đấy nhé.

 

Đấy là chuyện "nói dối " liên quan đến tài danh của Cuội.

 

Bây giờ ta trở lại thế giới của Cuội nhé.

 

Thế giới của Cuội là thế giới nào? Và Cuội là ai?

 

Cứ theo truyền thuyết được kể lại, Cuội là một anh nông dân trẻ tuổi, khoẻ mạnh, đẹp trai, con nhà nghèo, nghèo đến nỗi không nuôi nổi vợ đẹp. Một hôm Cuội ngồi bên bờ rừng than thở về số kiếp "nghèo mà ham" của mình. Bụt hiện ra, thương tình cho Cuội một cây đa đem về trồng, cứ lấy lá đa làm thuốc trị bá bệnh cho thiên hạ để kiếm tiền. Cây đa lớn như thổi theo ngày tháng và cũng chẳng mấy chốc Cuội trở nên giàu có. Cây đa này rất kỵ nước tiểu đàn bà và Cuội dặn vợ như thế. Rồi cũng một hôm, người vợ trẻ và xinh đẹp của Cuội tò mò vén váy làm thử những điều Cuội cấm. Vừa xong, trời đất rung chuyển, cây đa bật rễ bay lên. Cuội tiếc quá chạy tới ôm gốc đa giữ lại, không ngờ Cuội bị nhấc bổng bay thẳng lên cung trăng cùng với cây đa. Gặp Cuội, chị Hằng có bạn vui sướng quá nên không cho Cuội về. Việc trở về trần gian với cô vợ trẻ chỉ còn là giấc mơ của Cuội.

 

Ánh trăng trắng ngà

Có cây đa to,

Có thằng Cuội già

Ôm một mối mơ.

(Bài hát)

 

Trong truyền thuyết vừa kể, tôi chẳng thấy Cuội nói dối chỗ nào, có chăng là Cuội chỉ nói dối chị Hằng. Nói dối chuyện gì thì chỉ có hai người ấy biết. Hai người làm chuyện gì trên đó thì chỉ có Trời biết. Thiên hạ đồn rằng Cuội hay nói dối, ấy cũng chẳng qua là chuyện "nghe qua nói lại" như chuyện thị phi, một thứ thị phi giống như tôi chịu hàm oan về sự việc tôi bị kết tội là hay nói dối các anh vậy. Này nhé, các anh hãy nghe sự thật về Cuội:

 

Thằng Cuội ngồi gốc cây đa

Bỏ trâu ăn lúa gọi cha ời ời

Cha còn cắt cỏ trên trời

Mẹ còn cưỡi ngưa. đi mời quan viên

Ông thời cầm bút cầm nghiên

Ông thời cầm tiền đi chuộc lá đa.

(Ca dao)

 

(Tôi chăng biết cái lá đa nó quý cái gì mà các quan viên phải vác tiền đi chuộc mang về). Các anh có thấy Cuội hiền không, chỉ lỡ để trâu ăn lúa mà đã gọi cha ời ời rồi. Cuội có dối và có chối chi ai. Cuội chỉ hiền lành ngồi dưới gốc cây đa ăn cơm với cá mà thôi.

 

Thằng Cuội ngồi gốc cây đa

Ăn cơm với cá, ăn cà với dưa.

(Ca dao)

 

Trong khi đó, với "cái văn chương hạ giới” (theo cụ Tản Đà là loại văn chương bán rẻ như bèo) cũng thường nhắc tới chị Hằng và Cuội theo cái thị phi loài người như đã nói ở trên, với bà Hồ Xuân Hương thì:

 

Một trái trăng thu chín mõm mòm

Này vầng quế đỏ đỏ lòm lom.

Giữa in chiếc bích khuôn còn méo,

Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm.

Ghét mặt kẻ trần đua xói móc,

Ngứa gan thằng Cuội đứng lom khom.

Hỡi người bẻ quế, rằng ai đó,

Có chị Hằng Nga ghé mắt dòm.

(Hồ Xuân Hương – Trăng Thu)

 

Hay với cụ Trần Tế Xương:

 

Ta thấy người ta vẫn nói rằng,

Nói rằng thằng Cuội ở trong trăng.

Chứa ai chẳng chứa, chứa thằng Cuội,

Tôi gớm gan cho ả chị Hằng.

(Trần Tế Xương – Chị Hằng)

 

Và để rồi câu chuyện chị Hằng có con với Cuội đã trở thành nghi vấn, đàm tiếu:

 

Trải mấy thu nay vẫn hãy còn,

Cớ sao khi khuyết lại khi tròn.

Hỏi thăm chú Cuội đà bao tuổi,(1)

Chớ chị Hằng Nga được mấy con?

Đêm thẳm cớ chi soi gác tía?

Ngày xanh còn cứ thẹn vầng son.

Năm canh lơ lửng chờ ai đó?

Hay có tình chi với nước non.

 (Nguyễn Văn Siêu – Vấn Nguyệt)

 

Hay với ca dao:

 

Tưởng rằng trăng chẳng nguyệt hoa

Sao trăng chứa Cuội trong nhà hở trăng.         

         

Bắc thang lên hỏi ông trăng
Hỏi rằng chị Nguyệt đã từng mấy con.
         

 

Ấy đấy, cái miệng thế gian nói về Cuội như thế chưa hết, lại cũng qua ca dao Cuội còn bị đem ra để người đời:

 

– Than thở khi xa nhau:

 

Ai làm cho bến xa thuyền,

Cho trăng xa Cuội, bạn hiền xa nhau.

Cha mẹ sao chẳng nghĩ sâu,

Để thương để nhớ để sầu cho ta.

   

– Trách móc nhau:

 

Một trăng có mấy Cuội ngồi,

Một thuyền chở được mấy người tình chung

       

– Tán tỉnh nhau:

 

Vợ chồng chung gối chung chăn,

Thằng Cuội làm bạn với trăng đêm ngày.

        

– Và để chanh chua:

 

Em là con gái nhà giầu,

Mẹ cha thách cưới ra màu sính cao.

Cưới em trăm tấm gấm đào,

Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ông sao trên trời.

 . . .

Lá đa mặt nguyệt hôm rằm,

Răng nanh thằng Cuội, râu hàm Thiên lôi.

         

Để chấm dứt lá thư này tôi xin rỉ tai các anh rằng trên đất nước ta có một đám Cuội sinh đẻ ở làng Ngang:

 

Đầu làng Ngang có một chỗ lội,

Có đền ông Cuội cao vòi vọi.

Đàn bà đến đấy vén quần lên,

Chỗ thì đến háng, chỗ đến gối.

Ông Cuội ngồi trên mỉm mép cười:

"Cái gì trăng trắng như con cúi?"

Đàn bà khép nép đứng liền thưa:

"Con trót hớ hênh, ông xá tội"

-"Thôi thôi con có tội chi mà,

Lại đây ông cho giống thằng Cuội"

Từ đấy làng Ngang đẻ ra người,

Đẻ ra rặt những thằng nói dối.

(Nguyễn Khuyến – Chỗ lội làng Ngang)

 

Và tôi cũng nghe nói "thâm cung" đẹp đẽ của chị Hằng đã bị khám phá khi có đoàn thám hiểm của loài người lên thăm chị. Họ chê Trăng chỉ có non mà không có nước nên họ lục tục kéo về mà không buồn quay trở lại. Cuội không kịp theo về nên những đêm trăng sáng, ta vẫn thấy Cuội ngồi buồn bên gốc cây đa mơ về cô vợ trẻ.

 

Ánh trăng trắng ngà,

Có cây đa to, có thằng Cuội già

Ôm một mối mơ.

. . .

 

Kết luận:

 

Nếu tôi trở thành Cuội như các anh nói thì tôi sẽ có thể nói dối với tất cả mọi người, chứ tôi đây, nhất định không bao giờ nói dối vợ. Tôi xin dơ tay trái mà thề như thế. Tôi không nói dối nhưng tôi sẽ chối.

 

Nghe thế, cô hàng xóm nhà tôi đứng nhìn tôi bịt miệng cười rồi ve vẩy bỏ đi. Như chợt nhớ lại điều gì, cô xoa bụng quay đầu nói với lại, tiếng nhẹ và sắc, rít qua kẽ răng chỉ đủ để tôi nghe: “Anh không là Cuội thì anh cũng là nói láo, ba xạo, xạo ke, xạo chuá, dóc tổ ... anh đía quá mà”(2)

 

Tôi nhìn cô mỉm cười và liên tưởng ngay tới những cơn mưa đầu mùa ở miền Nam, mưa chợt đổ xuống rất to nhưng lại tạnh rất mau. Kệ.

 

-- Nguyễn Giụ Hùng

 

Ghi chú:

 

(1) Có bản là: Hỏi con thỏ ngọc đà bao tuổi?

(2) Những tiếng miền Nam chỉ về nói dối.

 

Mời nghe:

 

THẰNG CUỘI - KYO YORK

https://www.youtube.com/watch?v=UPUwE7svvx8

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Con bé yêu mẹ nó. Cứ vài ngày lại điện thoại hỏi mẹ có khỏe không. Bao giờ cũng vậy, cuộc thẩm vấn trên điện thoại với mẹ xoay quanh những câu đại loại như mẹ có bị sốt không, có bị ho không, có mệt mỏi không, có ngửi mùi thức ăn được không, có gặp người nào bị bệnh Covid không. Toàn bộ những câu mà người ta thường hỏi khi khách hàng bước chân vào một cửa tiệm trong mùa giãn cách cơn đại dịch. Ông không muốn con gái nghĩ bố bỏ mẹ ở nhà vì mẹ bị cách ly sau khi có những triệu chứng vừa kể. Nó muốn chắc ăn là cả bố lẫn mẹ không ai bị nhiễm Covid hết.
Những ngày gần cuối năm, chúng tôi nhận một ngôi nhà “mới” (của mình và “cũ” của người ta) không có đồ đạc và cần sắm sửa một vài thứ căn bản. Đồ mới, đồ đẹp thì ai lại không mê, nhưng ngặt nỗi đâu phải cái gì thích cũng đều có khả năng mua mới. Quần áo giày dép nào thích có khi còn nán đợi sale giảm giá vài ba lần mới mua, huống hồ những thứ đồ lớn với giá tiền gấp cả trăm lần… Phải thực tế và biết mình hỏng phải “First Daughter” (con gái lớn của tổng thống) mà là con gái lớn của cái anh Hai Lúa nhà kia từng làm việc ở tiệm Thrift Store (tiệm bán đồ của mấy nhà dư giả “biếu”). Đã 10 giờ tối, nằm trong túi ngủ (sleeping bag) trải trên sàn nhà (vì chưa có giường), tụi tôi “đi dạo” trên mạng xem có ai trong vùng rao bán gì hấp dẫn không. Có một quảng cáo chỉ vừa mới đăng chừng 5 phút rất ngắn gọn: “Bộ bàn ăn 8 ghế gỗ và da – giá $395, bán bởi chủ nhà”. Nhìn hình kèm lời quảng cáo phải nói là có cảm tình liền. Nguyên bộ bàn nhìn rất chắc và rất đẹp. Có vẻ là đồ “hiệu” thiết k
Người Việt chúng mình tại Mỹ hình như có cơ hội ăn “thiệt” và tiệc tùng trong năm nhiều hơn dân bản xứ, vì ngoài các ngày lễ bình thường, mà quan trọng nhất là các lễ Chiến Sĩ Trận Vong, Độc Lập, Tạ Ơn, Giáng Sinh, Tết Dương Lịch, còn có Tết Âm Lịch – bây giờ xin sửa lại như sau: Tháng 12 là tháng ăn chơi, Tháng Giêng cũng lại chơi với ăn đều đều, Tháng Hai thì Hội với Hè - đó là chưa kể đến các ngày lễ không kém phần quan trọng cho cộng đồng người Việt tỵ nạn như ngày Lễ Phật Đản, kỷ niệm Mất Nước 30 tháng 4, ngày Quân Lực VNCH… cùng các ngày kỵ giổ của từng gia đình, đại gia đình, và các đại hội của từng quân binh chủng, từng hội đoàn, từng hội thân hữu … Nhìn về những cái Tết khi còn ở quê nhà, Tết là một ngày lễ quan trọng duy nhất cho mọi người, mọi gia đình, cho cả nước. Bởi vậy có những năm Mẹ tôi được chính phủ cho thêm lương tháng 13. Người lớn rộn ràng sửa soạn Tết theo cách người lớn, tỉ mỉ, chuẩn bị trước cả tháng. Con nít chúng tôi có những náo nức riêng. Nhà nhà đều ăn
Tết càng cận kề, từ làng trên xuống xóm dưới, mọi người càng chộn rộn lo đủ thứ, y như cả năm chưa đủ lu bu vậy. Nhà bà hội đồng thì khỏi nói. Song le, năm nay bà hội đồng lại bận bịu một cách khác. Số là giữa bà và cậu Hai Đức đang có chuyện gây cấn. Sẵn dịp xuân về, bà muốn mời cô Tư Nhung qua nhà chơi vào ngày mùng hai Tết.
Nhớ, những năm mấy chị em còn nhỏ, có lần được Ba chở bằng xe vespa, ra tận Vũng Tàu. Trên đường đi, Ba ghé một khu rừng nào đó, đậu xe, đem theo cây dao, vào sâu trong rừng để tìm mấy cội mai. Ba chặt vài nhánh, chở về nhà. Lại nhớ, Ba cặm cụi tỉa nhánh, lặt lá, những cành có rất nhiều nụ. Ba ngâm mấy nhánh mai trong chậu nước lạnh để hãm nụ. Sau đó, cận cuối năm, Ba sẽ ngâm những nhánh mai chi chít nụ vào thau nước nóng, để sang giờ khắc giao thừa, những nụ mai bừng nở, vàng tươi cả bàn thờ, rực rỡ trên bàn phòng khách, mang điềm may mắn suốt năm. Mai vàng khoe sắc cùng mấy chậu cúc vàng, vạn thọ màu cam tươi, mồng gà đỏ rực, màu và sắc Tết trong gia đình Tím ngày xưa.
Nó đâu có biết rằng, tiếng hô bài chòi, hô lô tô, tiếng pháo giao thừa, âm thanh sôi nổi của hội xuân, hình ảnh hoa quả bánh mức, hình ảnh ngôi chùa quê với ông thầy hiền như Bụt ấy in sâu vào tâm khảm nó. Mà đâu chỉ có thế, hình ảnh bộ lư đồng sáng choang, ngọn đèn hột vịt leo lét trên bàn thờ cũng nạm vào hồn của nó.
Ngày xưa, người ta nhớ tới Ông Đồ Già mỗi lần Tết đến, ngày nay mình nhớ mấy cái YouTube của những nhóm sinh viên ở Sài-Gòn, tụ lại với nhau nấu bánh chưng bánh tét rồi đêm đến đem phân phát cho những người không nhà không cửa sống lây lất trên vĩa hè. Thấy người nào cũng vui, cũng đẹp và gói bánh cực kỳ giỏi. Chỉ mong một ngày nào về cùng gói bánh với họ, rồi theo họ đi “giao hàng”. Mình không biết gói bánh tét nhưng chắc học cũng mau thôi vì đã có “căn bản” rồi. Và chắc là sẽ rất “vui”.
Dường như tôi không hợp lắm với không khí gia đình, nhất là cảnh gia đình xum họp hay đầm ấm. Ngay lúc thiếu thời, vào những chiều giáp Tết, thay vì quanh quẩn ở nhà – phụ cha lau chùi lư hương; giúp mẹ bầy biện mâm cơm cúng cuối năm – tôi hay lặng lẽ tìm lên một ngọn đồi cao nào đó (lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang) với tâm cảm của một … kẻ giang hồ, đang trên bước đường phiêu bạt.
Tiếng chó sủa râm ran từ những căn nhà quanh xóm nghe ăng ẳng, tiếng quang quác của lũ gà kiểng ở trong vườn vọng vào làm cho Mike cảm thấy khó chịu, gấp trang sách laị, Mike cầm cây đèn pin ra vườn xem xét. Vườn khuya tịch mịch, bóng trăng rơi trên tàng cây khóm lá, tạo ra những mảng tranh tối tranh sáng khắp khu vườn.
Bà được cho biết thỉnh thoảng, cô bé 4 tuổi thức giấc, nhìn quanh, nhận ra bốn bức tường trắng của bệnh viện rất lạ lẫm, không phải là không gian nhà mình, lại không thấy cha mẹ và chị, Stella hoảng sợ, bật khóc. Nhưng đó là một tín hiệu tốt, vì Coronavirus không kịp tấn công vào thần kinh, và não bộ của em.
Nhưng tình thương của con sư tử này khác hẳn. Nó lớn lao quá. Nó hoàn toàn vị tha, bất vụ lợi. Một thứ tình thương nhuốm đầy đau thương, xót xa, bi tráng. Một thứ tình thương bất chấp cả đe dọa của Thần Chết. Đây là một trường hợp hiếm hoi, hay vẫn xẩy ra trong rừng sâu mà ta không hề biết đến. Dù gì đi nữa, người ta cũng nên suy nghĩ lại khi dùng câu nói “đồ lòng lang dạ thú” như một lời mắng nhiếc quen miệng. Và cũng nên tự hỏi phải chăng bản tính của con sư tử còn “thiện” hơn tính tình con người nhiều. Hay chí ít cũng “thiện” hơn tôi.
Nhưng Boncuk vẫn đứng yên nghiêm chỉnh nhìn vào cửa bệnh viện, mắt dõi theo hướng cái xe lăn đẩy ông Senturk về phòng. Nhân viên bệnh viện cảm mến lòng trung thành của con chó, để nước uống và thức ăn cho Boncuk. Rất từ tốn, và quý phái kiểu động vật bốn chân, Boncuk chỉ liếm láp khi nào cần "recharge" năng lượng. Cứ như thế, khoảng hai tuần sau, nhờ sự chăm sóc chu đáo của bệnh viện, nhờ ý chí bám vào sự sống của ông Senturk, và có lẽ nhờ cả lòng trung thành của Boncuk, ông Senturk bình phục và được xuất viện trong sự vui mừng khôn tả của con chó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.