Hôm nay,  

CUỘI

13/05/202220:36:00(Xem: 3702)

Nghỉ_ngơi

 


Bắc thang lên hỏi tận
trời,

Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời.

Cuội nghe thấy nói Cuội cười,

Bởi hay nói dối nên ngồi gốc cây.

(Ca dao)

 

"Nói dối như Cuội", đó là câu nói đầu môi của thế gian mỗi khi nói về Cuội. Cuội và nói dối không thể tách rời nhau. Muốn nói về Cuội ta không thể không nói về nói dối, hay ngược lại, xăng có thể cạn, lốp có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi.

 

Vậy nói dối là gì?

 

Nói dối là nói sai hay nói ngược lại với sự thật nhằm đạt mục đích như để lừa, để bịp, để che giấu, để chối, để cãi, để vờ vịt, để chạy tội, v.v. Và để vừa lòng nhau nữa tùy theo đối tượng và hoàn cảnh. Người ta nói dối vì yêu nhau, người ta cũng nói dối vì thù ghét nhau hay chỉ là câu chuyện "làm quà". Nhân vật nói dối có thể là một người, ấy là tự dối mình hay dối lòng, có thể là hai người, là một nhóm hay là cả một "tập đoàn". Tương tự, đối tượng của nói dối cũng có thể là một người, hai người, một nhóm người hay có khi cả nước, cả loài người.

 

Nói dối xẩy ra bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào. Ai cũng biết nói dối cả. Và có người thích nói dối, đến nỗi nói dối cả những điều không cần phải nói dối. Nói dối đã trở thành cái "tật", không nói dối thì cái mồm trở nên lúng túng ngọng nghịu mỗi khi cần phải nói thật. Cái tật này nguy hiểm ngang với cái tật ăn cắp vặt, ăn cắp cả những cái không cần ăn cắp, khi không ăn cắp thì cái tay trở nên ngứa ngáy vụng về. "Dối" thường đi với "gian" để trở thành "gian dối" hay "Ăn gian nói dối" là thế, cũng như ăn tục thì phải đi với nói phét (nói xạo) để thành "ăn tục nói phét" vậy.

 

Chính vì thế nói dối đã là một trong những giới luật cấm của mọi tôn giáo.

 

Nói dối có nhiều trình độ và thứ bậc khác nhau. Nói dối là cả một nghệ thuật tinh vi, thuộc về một thứ nghệ thuật cao cấp vì nó phải hội đủ nhiều yếu tố phức tạp và bén nhậy cả về tâm lý lẫn hiểu biết để nói dối sao cho người ta tin. Người nói dối phải vận dụng trí thông minh, óc sáng tạo để sự nói dối trở nên có logic, có tính thuyết phục và nhất là sự nói dối ấy không thể bị "lòi" như "nói dối thò đuôi" vậy. Nói dối còn đòi hỏi "khổ công", nghĩa là, để được thành danh như Cuội, người nói dối, ngoài cái thiên phú của mình, phải có nhiều công phu luyện tập sao cho da mặt trở nên dầy, dầy ngang với những chính trị gia tầm cỡ và phải luyện tập thân thể để chịu đựng được những cú đòn thù cỡ võ sĩ hạng nặng, vì đôi khi nói dối bị tổ trác có thể bị đánh đến phù mỏ hay guốc cao gót bổ lủng đầu. Trong trường hợp đó chỉ còn biết “ôm đầu máu” mà chạy. Ngoài ra còn phải có trí nhớ tốt để nhớ rằng mình đã nói dối với ai, trong trường hợp nào và nói gì, ra sao.

 

Nhìn chung thì nói dối có những cái đáng ghét như trong những câu tục ngữ, ca dao:

 

– Dối trên lừa dưới.

– Anh này có tính gian tà,

– Đi ra dối bạn về nhà dối con.

– Đi nói dối cha về nhà nói dối chú.

– Manh tâm nói dối cãi cối đổ thừa (hay cãi cối cãi chầy).

 

Và cũng có những cái nói dối thật đáng yêu và vui vui như:

 

Yêu nhau cởi áo cho nhau,

Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay.

 

Nhà em công việc bời bời,

Dối thầy dối mẹ sang chơi với chàng.

 

Dù ai bảo đợi bảo chờ,

Thì em nói dối: Con thơ phải về.

 

Mình nói dối ta mình hãy còn son,

Ta đi qua ngõ thấy con mình bò.

Con mình những trấu cùng tro,

Ta đi gánh nước tắm con cho mình.

 

Em nói dối anh em chửa có chồng

Con ai em bế em bồng trên tay?

 

Anh có vợ rồi anh nói dối rằng không,

Có nên chăng để thiếp còn đi lấy chồng.

 

Nói dối, đứng về cái nhìn thiền quán của nhà Phật. Có vị Thiền sư ghi lời Phật dạy, đại ý: Vạn pháp (mọi vật, mọi sự việc ...) do nhân duyên tạo thành. Cái này có mặt vì cái kia có mặt, cái này vắng mặt vì cái kia vắng mặt, cái này ẩn diệt vì cái kia ẩn diệt. Vạn vật hay mọi sự việc xảy ra trên đời như một mạng lưới nhân duyên chằng chịt. Vì nương vào nhau nên mọi vật mới có thể có mặt và trong cái một có cái tất cảtrong cái tất cả không thể không có mặt của cái một.

Tôi nói vòng vo theo vị Thiền sư như thế để muốn chứng minh cho các anh thấy "nói dối" cũng nằm trong cái định luật nhân duyên, nghĩa là "nói dối" được phát sinh bởi sự tập hợp của những cái "không nói dối". Chẳng hạn như khi tôi đi chơi với cô hàng xóm bị vợ bắt gặp, "nói dối" được phát sinh. Sự “nói dối” này phát sinh bởi các nguyên tố "không nói dối" đó là vợ tôi với cô hàng xóm. Và cái “duyên khởi” để tạo thành “nói dối” nơi tôi là do họ lại gập phải nhau trong tình huống ấy.

 

Nói dối quá đà thành chối, thành thề. Tôi sẽ thề với vợ như anh sẩm thề:

 

Thề rằng sẩm chẳng thấy gì,

Sẩm mà nói dối sẩm thì cũng đui.  (sẩm là thầy bói mù)

(Ca dao).

 

Sau khi tôi chối tôi thề, vợ tin, "nói dối" bị huỷ diệt. Cứ theo thuyết nhà Phật như thế và nếu các anh chấp nhận "nói dối" không có tự tánh vì không thể tự có và tự đứng một mình được thì chắc chắn các anh không còn trách tôi tại sao hay nói dối các anh. Không có các anh thì đã không có "nói dối" nơi tôi. Cười. Và có khi các anh lại tự trách mình là đằng khác, và cũng có khi các anh thấy tôi nói dối các anh lại là một điều cần thiết và đáng yêu nữa, đáng yêu như Cuội và chị Hằng trên cung trăng vậy.

 

Các anh cười với tôi khi tôi nói dối là các anh đang thực tập thiền quán về sự hiểu biếttinh thương hỉ xả. Lúc nào các anh cũng tỉnh thức để cười như thế thì con đường đi tới Niết Bàn không còn xa nữa. Các anh phải cám ơn tôi. Các anh đừng vội cho tôi là ngụy biện để chạy tội vì hay nói dối các anh đấy nhé.

 

Đấy là chuyện "nói dối " liên quan đến tài danh của Cuội.

 

Bây giờ ta trở lại thế giới của Cuội nhé.

 

Thế giới của Cuội là thế giới nào? Và Cuội là ai?

 

Cứ theo truyền thuyết được kể lại, Cuội là một anh nông dân trẻ tuổi, khoẻ mạnh, đẹp trai, con nhà nghèo, nghèo đến nỗi không nuôi nổi vợ đẹp. Một hôm Cuội ngồi bên bờ rừng than thở về số kiếp "nghèo mà ham" của mình. Bụt hiện ra, thương tình cho Cuội một cây đa đem về trồng, cứ lấy lá đa làm thuốc trị bá bệnh cho thiên hạ để kiếm tiền. Cây đa lớn như thổi theo ngày tháng và cũng chẳng mấy chốc Cuội trở nên giàu có. Cây đa này rất kỵ nước tiểu đàn bà và Cuội dặn vợ như thế. Rồi cũng một hôm, người vợ trẻ và xinh đẹp của Cuội tò mò vén váy làm thử những điều Cuội cấm. Vừa xong, trời đất rung chuyển, cây đa bật rễ bay lên. Cuội tiếc quá chạy tới ôm gốc đa giữ lại, không ngờ Cuội bị nhấc bổng bay thẳng lên cung trăng cùng với cây đa. Gặp Cuội, chị Hằng có bạn vui sướng quá nên không cho Cuội về. Việc trở về trần gian với cô vợ trẻ chỉ còn là giấc mơ của Cuội.

 

Ánh trăng trắng ngà

Có cây đa to,

Có thằng Cuội già

Ôm một mối mơ.

(Bài hát)

 

Trong truyền thuyết vừa kể, tôi chẳng thấy Cuội nói dối chỗ nào, có chăng là Cuội chỉ nói dối chị Hằng. Nói dối chuyện gì thì chỉ có hai người ấy biết. Hai người làm chuyện gì trên đó thì chỉ có Trời biết. Thiên hạ đồn rằng Cuội hay nói dối, ấy cũng chẳng qua là chuyện "nghe qua nói lại" như chuyện thị phi, một thứ thị phi giống như tôi chịu hàm oan về sự việc tôi bị kết tội là hay nói dối các anh vậy. Này nhé, các anh hãy nghe sự thật về Cuội:

 

Thằng Cuội ngồi gốc cây đa

Bỏ trâu ăn lúa gọi cha ời ời

Cha còn cắt cỏ trên trời

Mẹ còn cưỡi ngưa. đi mời quan viên

Ông thời cầm bút cầm nghiên

Ông thời cầm tiền đi chuộc lá đa.

(Ca dao)

 

(Tôi chăng biết cái lá đa nó quý cái gì mà các quan viên phải vác tiền đi chuộc mang về). Các anh có thấy Cuội hiền không, chỉ lỡ để trâu ăn lúa mà đã gọi cha ời ời rồi. Cuội có dối và có chối chi ai. Cuội chỉ hiền lành ngồi dưới gốc cây đa ăn cơm với cá mà thôi.

 

Thằng Cuội ngồi gốc cây đa

Ăn cơm với cá, ăn cà với dưa.

(Ca dao)

 

Trong khi đó, với "cái văn chương hạ giới” (theo cụ Tản Đà là loại văn chương bán rẻ như bèo) cũng thường nhắc tới chị Hằng và Cuội theo cái thị phi loài người như đã nói ở trên, với bà Hồ Xuân Hương thì:

 

Một trái trăng thu chín mõm mòm

Này vầng quế đỏ đỏ lòm lom.

Giữa in chiếc bích khuôn còn méo,

Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm.

Ghét mặt kẻ trần đua xói móc,

Ngứa gan thằng Cuội đứng lom khom.

Hỡi người bẻ quế, rằng ai đó,

Có chị Hằng Nga ghé mắt dòm.

(Hồ Xuân Hương – Trăng Thu)

 

Hay với cụ Trần Tế Xương:

 

Ta thấy người ta vẫn nói rằng,

Nói rằng thằng Cuội ở trong trăng.

Chứa ai chẳng chứa, chứa thằng Cuội,

Tôi gớm gan cho ả chị Hằng.

(Trần Tế Xương – Chị Hằng)

 

Và để rồi câu chuyện chị Hằng có con với Cuội đã trở thành nghi vấn, đàm tiếu:

 

Trải mấy thu nay vẫn hãy còn,

Cớ sao khi khuyết lại khi tròn.

Hỏi thăm chú Cuội đà bao tuổi,(1)

Chớ chị Hằng Nga được mấy con?

Đêm thẳm cớ chi soi gác tía?

Ngày xanh còn cứ thẹn vầng son.

Năm canh lơ lửng chờ ai đó?

Hay có tình chi với nước non.

 (Nguyễn Văn Siêu – Vấn Nguyệt)

 

Hay với ca dao:

 

Tưởng rằng trăng chẳng nguyệt hoa

Sao trăng chứa Cuội trong nhà hở trăng.         

         

Bắc thang lên hỏi ông trăng
Hỏi rằng chị Nguyệt đã từng mấy con.
         

 

Ấy đấy, cái miệng thế gian nói về Cuội như thế chưa hết, lại cũng qua ca dao Cuội còn bị đem ra để người đời:

 

– Than thở khi xa nhau:

 

Ai làm cho bến xa thuyền,

Cho trăng xa Cuội, bạn hiền xa nhau.

Cha mẹ sao chẳng nghĩ sâu,

Để thương để nhớ để sầu cho ta.

   

– Trách móc nhau:

 

Một trăng có mấy Cuội ngồi,

Một thuyền chở được mấy người tình chung

       

– Tán tỉnh nhau:

 

Vợ chồng chung gối chung chăn,

Thằng Cuội làm bạn với trăng đêm ngày.

        

– Và để chanh chua:

 

Em là con gái nhà giầu,

Mẹ cha thách cưới ra màu sính cao.

Cưới em trăm tấm gấm đào,

Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ông sao trên trời.

 . . .

Lá đa mặt nguyệt hôm rằm,

Răng nanh thằng Cuội, râu hàm Thiên lôi.

         

Để chấm dứt lá thư này tôi xin rỉ tai các anh rằng trên đất nước ta có một đám Cuội sinh đẻ ở làng Ngang:

 

Đầu làng Ngang có một chỗ lội,

Có đền ông Cuội cao vòi vọi.

Đàn bà đến đấy vén quần lên,

Chỗ thì đến háng, chỗ đến gối.

Ông Cuội ngồi trên mỉm mép cười:

"Cái gì trăng trắng như con cúi?"

Đàn bà khép nép đứng liền thưa:

"Con trót hớ hênh, ông xá tội"

-"Thôi thôi con có tội chi mà,

Lại đây ông cho giống thằng Cuội"

Từ đấy làng Ngang đẻ ra người,

Đẻ ra rặt những thằng nói dối.

(Nguyễn Khuyến – Chỗ lội làng Ngang)

 

Và tôi cũng nghe nói "thâm cung" đẹp đẽ của chị Hằng đã bị khám phá khi có đoàn thám hiểm của loài người lên thăm chị. Họ chê Trăng chỉ có non mà không có nước nên họ lục tục kéo về mà không buồn quay trở lại. Cuội không kịp theo về nên những đêm trăng sáng, ta vẫn thấy Cuội ngồi buồn bên gốc cây đa mơ về cô vợ trẻ.

 

Ánh trăng trắng ngà,

Có cây đa to, có thằng Cuội già

Ôm một mối mơ.

. . .

 

Kết luận:

 

Nếu tôi trở thành Cuội như các anh nói thì tôi sẽ có thể nói dối với tất cả mọi người, chứ tôi đây, nhất định không bao giờ nói dối vợ. Tôi xin dơ tay trái mà thề như thế. Tôi không nói dối nhưng tôi sẽ chối.

 

Nghe thế, cô hàng xóm nhà tôi đứng nhìn tôi bịt miệng cười rồi ve vẩy bỏ đi. Như chợt nhớ lại điều gì, cô xoa bụng quay đầu nói với lại, tiếng nhẹ và sắc, rít qua kẽ răng chỉ đủ để tôi nghe: “Anh không là Cuội thì anh cũng là nói láo, ba xạo, xạo ke, xạo chuá, dóc tổ ... anh đía quá mà”(2)

 

Tôi nhìn cô mỉm cười và liên tưởng ngay tới những cơn mưa đầu mùa ở miền Nam, mưa chợt đổ xuống rất to nhưng lại tạnh rất mau. Kệ.

 

-- Nguyễn Giụ Hùng

 

Ghi chú:

 

(1) Có bản là: Hỏi con thỏ ngọc đà bao tuổi?

(2) Những tiếng miền Nam chỉ về nói dối.

 

Mời nghe:

 

THẰNG CUỘI - KYO YORK

https://www.youtube.com/watch?v=UPUwE7svvx8

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Câu truyện mà tôi kể dưới đây diễn ra trên toàn miền Bắc Việt Nam từ khoảng năm 1965 tới 1972. Trong bẩy năm trời đó, hàng triệu người tham gia vào câu truyện này và là nhân chứng, vậy mà cho tới nay không một báo chí, một truyện ngắn, truyện dài nào nói đến “sự kiện lịch sử” này. Điều này làm cho tôi cứ băn khoăn suy nghĩ trong nhiều năm trời: Tại sao có những sự việc phi lý đến như vậy mà lại có hàng triệu người vui vẻ tuân theo; cho tới bây giờ đang thời kỳ “mở cửa”, tiếp xúc với “Thế giới văn minh” bên ngoài nhưng khi nghe hỏi về sự việc đó thì vẫn có rất nhiều người đồng tình với nó và cho đó là đúng, là hợp lý.
Ngày đầu khởi hành từ làng Mangkang, đoàn người vừa đi vừa lạy được hai mươi dặm, cứ mỗi bảy bước là một lạy, mọi người lạy dài xuống đất, để cả đầu, mình tay chân chạm đất. Họ lạy với tất cả tâm thành tôn kính đức Phật. Chị Zesay có bầu nhưng vẫn lạy như mọi người, cô bé Ceba mới mười hai tuổi, con gái của Tenzin cũng lạy như mọi người.
Năm 1620 xa xưa con tầu Mayflower đã chở các gia đình người Anh từ Anh Quốc vượt Đại Tây Dương đến châu Mỹ để tìm đất hứa. Ngày nay con tầu này cũng đưa chúng tôi rời khỏi VN để đi tìm một vùng đất hứa như vậy. Chúng tôi đi trong Tháng Tư nên tên tàu April Flower được khai sinh từ đó
Bằng ngôn ngữ không chủ từ, bằng câu kệ không đầu đuôi, tôi cố thuyết phục bệnh nhân rằng chết không phải là chọn lựa thích hợp, rằng đâu đó trên thế gian này vẫn còn một người yêu thương cô hơn yêu thương chính mình, rằng trong những thứ con người có được, không gì quý bằng mạng sống. Tôi nói cho một mình tôi nghe. Tôi kể chuyện mẹ tôi. Tôi kể chuyện cha tôi. Tôi kể chuyện em gái tôi. Tôi kể chuyện nửa đêm tôi quýnh quáng lại nhà người bệnh. Con mắt đứa bé đã đứng tròng, chân tay co giật từng hồi. Muộn lắm rồi. Nhưng người mẹ khóc lóc nài van. Chích cho cháu mũi thuốc hồi sinh. Hay thuốc gì cũng được. Miễn là có chích. Biết đâu cháu nó lại không chết. Mũi kim nhọn ánh lên dưới ánh đèn dầu trong đêm tăm tối. Vậy mà thằng bé lại sống, cô Thắm biết không. Bây giờ cô Thắm biết thằng bé ấy đang làm gì không. Nó học y tá. Nhà nó nghèo không vào trường y được nhưng nó nhất định làm y tá để cứu người. Cô gái vẫn nằm nghiêng quay mặt vào tường. Lạnh băng tượng gỗ. Đôi vai khẽ chuyển động như v
Lão Honda Accord đã quá già, hơn hai trăm ngàn dặm rồi chứ ít sao. Lão đã gắn bó với cậu chủ mười mấy năm nay. Ngày mới về với cậu chủ, lão còn mới toanh, cậu chủ cưng như trứng hứng như hoa, một tí trầy xước trên thân lão cũng đủ làm cậu chủ đau lòng, mỗi tuần cậu chủ tắm rửa đánh bóng lão… Ấy vậy mà giờ cậu chủ chẳng ngó ngàng gì đến lão nữa, lão già và trở nên xấu xí, đôi khi còn giở chứng nữa.
Bất cứ ai sống trên đời, không nhiều thì ít, đều có những kỷ niệm đặc biệt vui buồn in sâu trong tâm trí. Một trong những kỷ niệm này cũng là khi mình từng được lãnh nhận những món quà xem như những kỷ vật tinh thần vô giá được lưu trữ từ đời này đến đời nọ cho con cháu sau này.
Tiếng chuông chùa đòng vọng, vang xa trong không gian buốt lạnh của một chiều cuối Đông khiến quang cảnh quanh chùa trông thật tịch liêu. Mặt trời nghiêng về phía quê xưa. Những tia nắng mong manh nhẹ nhàng ve vuốt từng phiến đá gầy trước sân chùa.
Đăng lại nhớ chuyện con chó bơi qua sông trong một truyện ngắn của sư Giới Đức. Con chó ở chùa nghe chuông, ăn cơm chay, quanh năm quấn quýt với thầy. Một hôm kia nó nghe mùi thịt nướng bên kia sông nên bơi qua bên ấy, bơi đến giữa giòng thì nghe tiếng sư phụ gọi nên bơi quay về, gần tới bờ thì lại thèm mùi thịt nướng nên lại bơi ngược qua sông, cứ như thế nó bơi qua bơi lại đến khi kiệt sức thì chết đuối giữa giòng.
Tôi vẫn tin rằng tương lai một dân tộc, một đất nước sẽ khá hơn khi những công dân trẻ tuổi đặt câu hỏi này cho bản thân. Bởi vì những bạn trẻ đã tự vấn như vậy sẽ không để cho cuộc sống quí giá của mình trở nên lãng phí.
Khi nó mở mắt tỉnh dậy thì có cảm giác cả thân mình nó bị lôi ngược. Nó cố vùng vẫy nhưng cái đuôi có sợi dây buộc. Nó nhướng mắt nhìn về sau thì thấy hai con tàu màu xanh với những sọc đỏ chạy dọc hai bên lườn đang kéo nó ra khơi. Muosa cũng được hai con tàu khác lôi ngược ra xa. Khi cả thân mình to lớn của nó vẫy vùng dễ dàng trong làn nước biển thì sợi dây buộc ở đuôi được tháo ra. Nó ngoái đầu lại kêu “hoop hoop hoop” liên hồi. Nó không biết nói tiếng của loài người, nó cảm ơn những con tàu đã kéo nó về biển sâu bằng âm thanh của nó.
Vốn đã đóng góp nhiều cho một số tổ chức thiện nguyện hàng năm, đặc biệt là tổ chức "Raise Hope for Congo"(Phi Châu), trong đại dịch Aaron Rodgers đã trích một triệu đồng từ tiền túi của mình để giúp đỡ cho 80 cơ sở thương mại ở sinh quán của anh, thành phố nhỏ Chico ở miền Bắc California.
Vẫn như có sẵn định mệnh cho từng người, không ai chọn lựa được đâu! Ai mà biết được mình sẽ chết vì cái gì, chết lúc nào và chết ra sao? Có lẽ vì đã chứng kiến quá nhiều người chết nên Ái có một cách nghĩ cho riêng mình. Đó là làm việc bằng tinh thần của một người lính. Giường bệnh là chiến trận. Người lính chỉ có một con đường là chiến đấu.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.