Hôm nay,  

Đồng phục

30/10/202222:06:00(Xem: 4101)
Tạp ghi

50CD368E-5F76-4AF9-B70C-27F76F85A7DA


Từ khi Việt Nam bang giao rộng rãi với cộng đồng thế giới, gia nhập kinh tế thị trường (vì xấu hổ quá nên gắn thêm cái đuôi “định hướng XHCN”), các công ty ngoại quốc vào đầu tư xây dựng nhiều nhà máy, xí nghiệp công nghiệp và hoạt động trong nhiều ngành dịch vụ khác. Số vốn Foreign Direct Investment (FDI) ngày càng gia tăng kéo theo nhiều đổi thay trong xã hội Việt. Về hình thức thì có nhiều, mà một trong số đó là loạn đồng phục!

 

Ở miền Nam trước 1975 chỉ có quân đội, cảnh sát, nhân viên Y tế, học sinh trung học, tu viện Phật giáo, nhà dòng Công giáo và một số ngành đặc biệt cần có để phân biệt với thường dân. Tất cả để tạo ra ý thức kỷ luật và xa hơn là tự hào đối với người mặc nó. Quân đội và những người theo ngành có vũ trang được may đồng loạt nhưng học sinh và nhân viên Y tế thì tự may, miễn là theo quy cách và đúng màu mà trường/ ngành quy định.

 

Trong quân đội, mỗi binh chủng có đồng phục riêng, thường thì bộ binh màu xanh lá (như màu rêu đậm), hải quân quần xanh áo trắng. Các binh chủng thiện chiến như nhảy dù, thủy quân lục chiến, biệt động quân, lực lượng đặc biệt, v.v… đều có áo quần in hoa văn rằn ri một phần để phù hợp với địa hình địa vật núi rừng, phù hiệu binh chủng may trên cánh tay áo sát vai trái. Ngoài ra, họ còn phân biệt qua màu mũ bê-rê. Đỏ: nhảy dù; nâu: biệt động quân, TQLC xanh lục. Ở các trường đào tạo sĩ quan hiện dịch như Hải quân, Võ Bị Quốc Gia, Chiến Tranh Chính Trị, sinh viên sĩ quan còn có thêm đồng phục là 4 bộ lễ phục, đại lễ và tiểu lễ, mùa đông riêng, mùa hè riêng. Ngoài ra, các trường đào tạo sĩ quan đều có đồng phục riêng cho việc duyệt bình trong các dịp lễ. Đồng phục trường Thiếu sinh quân ngày xưa cũng khá đẹp với áo và quần soọc màu beige (gam màu nhạt thiên về tông vàng), bê-rê đen.


a1 

Đồng phục học sinh chỉ từ lớp đệ thất (lớp 6) mới mặc, nam sinh quần xanh biển áo trắng, nữ sinh áo dài và quần trắng, nữ sinh đệ nhất cấp cũng có thể mặc đầm trắng. Học sinh còn phải thêu bảng tên đính vào trên túi áo phía ngực trái với nam sinh và gắn vào áo dài khoảng giữa vai và ngực với nữ sinh. Kích thước bảng tên và kích cỡ chữ tùy quy định của từng trường. Trường nữ Đồng Khánh Huế còn có thêm quy định màu chỉ thêu để dễ phân biệt khối lớp. Cụ thể là: “Nhất tím, nhị hồng, tam xanh (biển), tứ đỏ, ngũ vàng, lục xanh (lá cây), thất cam”. Hồi đó, nữ sinh Đồng Khánh được mang bảng tên màu tím là điều rất đáng tự hào vì học lớp cao nhất trường, năm sau là vào Đại học. Các trường Pháp ngày xưa trên cả nước và đặc biệt là ở Đà Lạt, đồng phục học sinh ở đây như các trường Franciscaine, Couvent des Oiseaux cũng luôn tạo ra những hình ảnh đẹp cho thành phố hoa này.

 

Ở Việt Nam hiện nay, từ phố thị rộng rãi đến đường quê chật hẹp, ở đâu cũng thấy “đồng phục” từ công nhân đến đội ngũ bảo vệ cơ quan, nhà máy, tiệm ăn, siêu thị, từ nhân viên Y tế công mặc đồng phục trắng đến các bệnh viện tư đồng phục đa sắc màu. Hải quan, bưu điện, điện lực, bảo hiểm và rất rất nhiều ngành nghề khác, kể cả công nhân các công ty vệ sinh, xây dựng, khách sạn, nhà hàng... Đâu đâu cũng thấy “đồng phục”! Cũng còn kể thêm các đồng phục chỉ dùng một lần, đó là của những lớp, khóa Trung học và Đại học kỷ niệm ngày ra trường hay đồng phục của ban tổ chức lễ hội, gần đây là của các HLV Lễ hội dù lượn trên bãi biển Nha Trang. Có những ngành chọn logo, màu, chữ in đẹp nhưng cũng có ngành không hề có chút thẩm mỹ nên trở thành phản cảm và làm ô nhiễm mắt người nhìn.

 

Về bảng tên, hiện nay cũng có nhiều đổi khác, đó là  nhân viên văn phòng, y-bác sĩ BV, các lực lượng chức năng dùng bảng tên in có bọc nhựa và dây đeo ở cổ hoặc khắc trên mica có kim đính vào túi áo. Việc này tạo thuận tiện để người giao tiếp dễ xưng hô hoặc có thể biết để khiếu kiện, ví dụ gặp công an giao thông đòi tiền mãi lộ!

 

Đồng phục học sinh cũng đa dạng không kém nhất là nữ sinh về kiểu dáng và màu váy. Có trường còn bắt buộc cặp sách, bảng tên giống nhau. Tất cả những đồng phục này được nhà trường bán cho học sinh đầu năm. Đây là nỗi lo về kinh tế cho cha mẹ học sinh nghèo khi phải gánh quá nhiều khoản đóng góp nhưng lại là nguồn thu đáng kể cho Ban Giám hiệu và nhân viên đặt hàng bởi hoa hồng họ hưởng từ nơi may hoặc bán không ít.

 

Ở miền Nam Việt Nam trước 75 có một ngành nghề không “đồng phục” mà nhìn nơi họ làm việc thì người tinh ý biết ngay: nghề mật vụ chìm! Ở Sài Gòn, họ thường ngồi trên xe Honda 67 đậu trước các trường đại học thường xảy ra các vụ đấu tranh của sinh viên. Cư xá Minh Mạng Sài Gòn cũng là nơi “ăn cơm tháng” của những người này. Họ thường ngồi đọc báo nhưng luôn quan sát mọi động tĩnh trong các hoạt động của sinh viên. Hữu sự, họ có thể là những người phản ứng nhanh trước khi cảnh sát sắc phục được điều tới.

 

Hiện nay, không có quy ước, không bị ràng buộc bởi bất cứ định chế nào nhưng có hai nghề không mặc đồng phục mà nhìn vào cũng nhận ra ngay: xe ôm và bán vé số. Ngồi trên yên xe ở các ngã ba, ngã tư, bến xe, cổng bệnh viện, v.v… trên xe có hai mũ bảo hiểm thì đích thị là dân xe ôm. Đi bộ, đi xe đạp hoặc xe máy chậm rãi, trên người có một túi xách nhỏ có dây đeo từ vai trái sang hông phải hoặc ngược lại, đội nón lá hoặc mũ rộng vành thì đích thị là dân bán vé số. Ở các cây xăng, chợ rất dễ nhận ra vì trên tay họ luôn có một xấp vé số! Những người làm nghề xe ôm và bán vé số chiếm tỉ lệ cao trong thành phần lao động, đa số không vốn liếng, không có tay nghề và thất nghiệp nên kiếm cách tự nuôi mình và may ra, nuôi gia đình. Hai nghề này có thể coi là tận cùng xã hội nên có lúc, cha mẹ la con cái bằng câu: “Không chịu khó học hành, sau này sẽ đi ăn mày hoặc khá hơn là đi bán vé số/ làm nghề xe ôm thôi con!” Đã vậy mà có dạo nhà nước Việt Nam định đánh thuế hai đối tượng làm nghề này! Chỉ đến khi xã hội lên án gắt gao, dự định này mới bị bãi bỏ.


ban-ve-so-1 

Mặc đồng phục có nhiều ưu điểm trong đó có việc làm đẹp phố phường, nơi làm việc nhưng cũng không phải không có nhiều mặt trái, nhất là khi màu áo bị người xấu lợi dụng làm những điều không tốt như lừa đảo, hù dọa, trả thù cá nhân nhân danh cơ quan, tổ chức. Đồng phục, huy hiệu, bảng tên của trường hay nơi làm việc đều tốt nếu người mặc biết giữ tư cách và uy tín đơn vị mình, sẽ rất hãnh diện nếu người mặc như mình xuất sắc ở một lãnh vực nào đó và làm rạng danh đơn vị mình. Nếu làm xấu thì khác nào tự bôi đen màu áo đồng phục, bảng tên!

Đồng phục là chuyện của loài người từ xa xưa, không phải đặc trưng của một nước nào. Ở Mỹ, một quốc gia đa sắc tộc, có những cơ quan/ tổ chức quy tụ người đến từ nhiều nước khác nhau, phía sau lưng áo đồng phục có in thêm cờ của quốc gia nơi họ sinh ra. Xét trên bình diện chung, phát hành và mặc đồng phục là việc tốt nhưng nếu là loạn đồng phục như đã xảy ra ở Việt Nam thì, nói thật lòng, người viết không ủng hộ mà nhìn như một cảnh bát nháo, chắc chắn cũng làm lợi cho nhiều người lợi dụng nó và là điều nên suy nghĩ kỹ trước khi phát hành.

 

Nguyễn Hoàng Quý

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cái tên Pulau Bidong nghe rất đỗi thân thương và gần gũi với nhiều người vượt biển Việt Nam lánh nạn cộng sản từ sau năm 1975 và cũng là biểu tượng của ngưỡng cửa Tự Do mà nhiều người mơ ước. Mảnh đất nhỏ bé này là một hải đảo, cách xa tiểu bang Terengganu của Malaysia khoảng một giờ đi thuyền. Nếu có cơ hội, những người thuyền nhân năm xưa nên trở lại, chỉ một lần thôi, thực hiện một cuộc hành hương trở về vùng đất Thánh. Dù không phải là một cựu thuyền nhân tạm dung nơi hải đảo hoang vu này, đôi chân lạ lẫm không quen của tôi đã đặt chân lên Pulau Bidong trong một chuyến du lịch ngẫu hứng, cho ký ức quãng đời tỵ nạn ngày xưa lần lượt trở về trong tôi.
Tả sao cho hết cảnh cổng lớn đồ sộ. Từ chân lên đến đỉnh, tràn ngập mặt nạ treo kín mít. Đủ loại mặt nạ tượng trưng cho thiện ác, xấu đẹp, đúng sai. Có cả mặt nạ Chúa, Phật, thánh thần, hiền nhân, ác tặc, vân vân. Dọc bên dưới là những thùng lớn chứa vô số mặt nạ theo kiểu treo bên trên. Người nào đi vào, tự động lựa cho mình một loại mặt nạ hợp với tính tình, mang lên, rồi mới được tiếp tục đi. Mỗi người có hai mặt nạ, một thật đã thói quen thành giả và một giả thật chồng lên.
Chúng tôi cùng cười vui vẻ tìm đường ra khỏi cổng chùa Thiên Trù tức “chùa Ngoài” để rồi tiếp tục cuộc hành trình vào chùa Hương Tích tức “chùa Trong”...
Anh nhớ rõ buổi sáng hôm đó, anh đang chăm chú theo dõi viết bài bài thi Dictée Francaise do thầy Trương Thành Khuê đọc, bỗng nhiên ngửi thấy mùi cứt, cả lớp ngẩng đầu nhìn qua bệ cửa sổ thấy có 4 người tù đẩy một chiếc xe có hai thùng phân của nhà lao Phan Rang, theo sau là môt tên lính mang súng và tay cầm roi da. Cả thầy Khuê và các bạn đều nhìn ra cha của anh, một trong 4 người tù ấy. Anh cúi xuống và tiếp tục viêt bài thi. Cuối giờ thi, nước mắt anh hoen ố bài Dictée. Thấy vậy thầy Khuê lấy tờ giấy chậm (buvard), chậm khô bài thi Dictée. Cha của anh cũng là giáo viên, có thời ông là bạn láng giềng thân thiết của thầy Khuê. Đến lúc ra về, các bạn Long Địch Trạnh, Trần Nhât Tân, Trần Văn Thì... đang đứng đợi anh bên ngoài véranda, các bạn đến an ủi và vổ về khích lệ khuyên anh cứ tiếp tục thi.
Hai đứa cùng lớp từ tiểu học. Nhà Quỳnh Lâm ở gần sân vận động. Nhà tôi ở đường Quang Trung, gần trường Chấn Hưng. Hai đứa đến trường Nữ Tiểu Học từ hai hướng khác nhau. Vậy mà vẫn cứ đi vòng, để cùng đến lớp. Hai đứa vẫn thường tắm chung trước khi rời nhà. Quỳnh Lâm mặc mấy áo đầm kiểu trong báo Thằng Bờm, Thiếu Nhi. Ba tôi bảo thủ, cho tôi diện những kiểu đầm xưa lắc, xưa lơ. Có năm, kiểu áo đầm xoáy, tay cụt rất thịnh hành. Chị Thanh Tâm xin Mạ ra tiệm Ly Ly may cho tôi một áo. Nhưng Ba bắt phải cải biên, tức là phải dài quá gối (đâu còn thuộc họ mini jupe nữa đâu), và tay phải dài che cùi chỏ.
Người con gái ngồi bất động như thế đã từ lâu lắm; dễ chừng có cả tiếng đồng hồ rồi. Trời biếc xanh, lác đác những khóm mây bông gòn trắng nõn, biển xanh thẫm phía trước, sóng dạt dào xô nhau vỗ vào ghềnh đá tung bọt trắng xóa dưới chân. Tất cả như cùng cuốn hút nàng vào cái bao la mịt mùng bí mật. Ở một góc nhìn từ bên sườn dốc đá, thấy nàng nhạt nhòa trong nắng như một phần của núi non đã hóa thạch từ ngàn năm trước. Người con gái, như tượng đá, mong hoài một điều không bao giờ xảy ra; một ước mơ không bao giờ thành sự thực; hay nàng đứng chờ trông một người đã mịt mù bóng chim tăm cá?
Ngày Hiền Phụ hay là Ngày Lễ Cha (Father’s Day) rơi vào ngày Chủ Nhật thứ 3, tháng 6 hàng năm tại Hoa Kỳ, được Tổng Thống Lyndon Johnson chính thức công nhận là ngày lễ quốc gia từ năm 1966, sau đó Tổng Thống Nixon ký thành luật, ban hành năm 1972. Theo lịch sử Hoa Ký, vào năm 1909, bà Sonora Smart Dodd lúc đó 27 tuổi, sau khi nghe diễn thuyết về ngày Lễ Mẹ tại đền Spokane tiểu bang Washington, bà nảy sinh ý muốn có một ngày đặc biệt để tôn vinh người cha, vì cha cũng xứng đáng được tôn vinh như mẹ. Tư tưởng này xuất phát từ lòng can đảm, sự hy sinh và tình thương dành cho các con của cha bà là ông William Smart. Vợ chết ngay khi sinh đứa con thứ 6 vào năm 1898, ông William Smart đã ở vậy, một mình nuôi 6 đứa con ở một nông trại miền Đông tiểu bang Washington Hoa Kỳ.
Tình yêu không phải là thứ ngôn ngữ nói ra, mà là ngôn ngữ để giữ kín! Tôi đã chôn kín hình ảnh đẹp nhất một đời người. Bây giờ người con gái năm xưa đang ở đâu, sống ra sao trong vạn nẽo đường trần hệ lụy. Có còn nhớ cơn mưa bong bóng chiều nào nơi hiên ngôi chùa nhỏ? Có còn tìm thấy những cơn mưa bong bóng bên đời? Hay tất cả đã phôi pha, đã trôi theo những giọt mưa bong bóng một thời đã mất?
Sau khi đội chiếc mũ beret đen lên đầu ông Hậu bước ra ngoài, thấy lòng thoải mái hẳn ra, ở trong nhà này toàn là “luật lệ” ăn cơm đúng giờ, đi ngủ đúng giấc, con dâu “kiểm tra” ông từng tí một “Ủa hôm nay sao ba tắm trễ, tắm vào buổi tối dễ bị cảm lạnh đó ba.” Con trai cũng “để ý” ông từng tình huống: -“Tối qua ba thức khuya quá, 12 giờ đêm con dậy đi tiểu thấy phòng ba còn sáng đèn. Ba nên ngủ sớm dậy sớm tốt cho sức khỏe”. Ông có niềm vui với computer lúc đọc báo xem tin tức, xem you tube mọi đề tài, lúc nghe nhạc, lúc vào group trò chuyện với bạn bè gần xa, ngồi với computer cả ngày cũng chưa chán. Thế mà con cũng… phê phán.
Ờ ờ thì số này đây, nhà này đây, lúc trước kia ông đã lên vài lần mà, ông đâu có lầm, mà nay sao thấy là lạ… hình như chúng đã phá bỏ cây hoa bông giấy phía trước, thay vào đó là một hàng rào thưa trống vắng… đúng là số nhà đó mà. Ông săm săm mạnh bạo đẩy cổng… thì bất chợt hai đứa cháu nội, Hiền và Nghĩa, cũng bật tung cánh cổng chạy ùa ra đón ông, vừa đón ông, vừa như chúng ngăn lối vào, mỗi đứa nắm cứng một bên tay ông, giữ lại, miệng lắp bắp: Nội, nội lên Sài Gòn sau không báo tụi con? - Nội, nội đừng vô nhà, bị… bị má con đi vắng!
Thị trấn ấy vô cùng nhỏ bé. Một con đường chính viền hàng cây phong với vài ba ngã tư đèn xanh đèn đỏ. Từ đó mọc lan ra những con đường nhỏ, quanh co vào những khu xóm thưa người. Vì vậy khu rừng sau nhà là nơi tôi lui tới thường xuyên. Một tấm bảng với hai chữ “Dead End” gắn trên cây cột gỗ chôn ở bìa rừng. Một lối mòn vắt trên cỏ dại, bò quanh co giữa những tàng cây cao và bụi rậm với dây leo chằng chịt. Tôi thường mò mẫm một mình trên lối mòn ấy cho đến khi đám dây leo vắt ngang, chặn mất lối đi và cỏ dại xóa hết lối mòn. Dọc lối mòn quanh co ấy, thỉnh thoảng có một tảng đá nằm trơ trọi giữa cỏ cây rậm rạp, như thể ai đó đặt sẵn chỗ nghỉ chân cho những kẻ rong chơi. Và rải rác đó đây một loài hoa lạ. Loài hoa có bốn cánh mở ra vào ban mai và khép lại khi chiều xuống. Những bông hoa phảng phất mùi quế. Loài hoa lạ lùng dường như chỉ mọc trong cánh rừng ấy
Có lẽ mưa đã đổ xuống thành phố Paris vào lúc ban khuya nên khi tôi choàng tỉnh dậy lúc năm giờ sáng, ra khỏi giường để bước tới cửa sổ vén màn che nhìn ra ngoài thì thấy trời vẫn còn mưa...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.